1.10.2012
Học thật, làm thật là điều kiện để phát triển bền vững
Trần Văn Thọ
GS Đại học Waseda, Nhật Bản
Gặp tiến sĩ khoa học kinh tế Trần Văn Thọ, điều ngạc nhiên không phải là mái tóc bumbê gần như tóc con gái, mà là khuôn mặt học trò của một vị giáo sư ngoại ngũ tuần. Giảng dạy kinh tế tại trường đại học của một cường quốc kinh tế là Nhật Bản nhưng lại bảo thủ một cách khó hiểu trong việc sử dụng các tiện nghi của thời hiện đại.
Nhìn ông nói về những bức xúc trước thực trạng kinh tế xã hội, thấy đằng sau dáng dấp cổ điển của một vị giáo sư đại học là hình ảnh một cậu học trò nghèo, thông minh, hiếu học. Ông cười, nụ cười nhỏ và sáng rực. Sinh năm 1949 tại Quảng Nam, sang Nhật du học năm 1968, từng là thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn kinh tế của nhiều đời Thủ tướng Nhật và hiện đang là giáo sư kinh tế Đại học Waseda (Tokyo), Trần Văn Thọ là một trí thức luôn theo sát tình hình phát triển và góp ý về các vấn đề kinh tế, giáo dục của Việt Nam.
Ngoài việc cộng tác trong các Tổ Tư vấn cải cách kinh tế hoặc trong Ban Nghiên cứu chính sách của nhiều đời thủ tướng Việt Nam, sáng lập viên Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (VAPEC) tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh, giáo sư còn là cầu nối giao lưu giữa sinh viên Nhật Bản - Việt Nam và là cây bút quen thuộc trên các báo: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thanh Niên, TS...
Giáo sư từng đề nghị chọn một ngày trong năm làm ngày tổ chức thi tuyển người tài giỏi, đức độ ra làm việc nước. Nếu có một ngày như vậy thì sự khác biệt về chuyên môn, ngành nghề sẽ được giải quyết thế nào?
Về cơ bản, phải nhận thấy sự cần thiết của bề dày văn hóa đối với người ra làm việc cho đất nước. Theo ý tôi, nên chia việc tuyển người tài thành hai nhóm: Nhóm chuyên viên nghiên cứu, kỹ thuật thì kiểm tra riêng và nhóm quan chức sau này trở thành cán bộ lãnh đạo hoặc quản lý thì không cần kỹ năng đặc biệt. Năng lực diễn đạt, sự hiểu biết về văn hóa, triết học, lịch sử, luật pháp, hành chính là những yếu tố cần thiết đối với người ở nhóm thứ hai. Một khi đã có tầm nhìn, có ý thức trách nhiệm và hiểu luật pháp và cơ cấu hành chính, thì không cần học nông nghiệp mới quản lý, lãnh đạo được trong ngành nông nghiệp, không cần học thương mại mới làm được công thương.
Dĩ nhiên khi được giao công việc cụ thể thì họ sẽ tìm hiểu, học hỏi để nắm vấn đề và chuyện này sẽ không khó đối với người đã có năng lực cơ bản. Mục tiêu sau cùng của cuộc thi tuyển là tìm được những người có năng lực cơ bản và trình độ văn hóa cao, vì người có văn hóa cao thì không thể hạ mình để tư túi hay trốn tránh trách nhiệm.
Giám khảo của kỳ thi đó phải quan trọng lắm! Thế nào là một giám khảo lý tưởng?
Quan trọng chứ! Giám khảo phải là người xứng đáng về năng lực và đức độ chứ không chỉ là người nổi tiếng. Ở Nhật hay nước khác, Ban giám khảo là những người không được công bố. Gần đây báo Nhật đăng tin có trường hợp ông giáo sư nọ trong ban giám khảo của kỳ thi tuyển thẩm phán vì muốn học trò mình nhiều người đậu đã ngầm nhấn mạnh (trong các buổi giảng ở đại học) những nội dung ông sẽ ra trong đề thi. Khi chuyện này bị phát hiện, ông giáo sư bị đưa ra khỏi ban giám khảo ngay và báo chí đã lên tiếng phê phán rất nặng. Một chuyện như vậy ở Nhật đã bị xem là nặng nề lắm rồi, nói gì đến chuyện bán đề hay lộ đề.
Gần đây ở Việt Nam nhiều người quan tâm đến kế hoạch đào tạo hàng ngàn tiến sĩ. Giáo sư nghĩ sao về điều này?
Đây là vấn đề mà tôi đã góp ý cách đây nhiều năm. Nhật Bản đông dân hơn và có thu nhập đầu người gấp gần 70 lần Việt Nam, vậy mà ở nước ta số người có bằng tiến sĩ trong các lĩnh vực quản lý hành chính hoặc kinh doanh nhiều gấp mấy lần ở Nhật. Đó là một hiện tượng dị thường! Một trong những vấn đề giáo dục mà nước ta đang đối mặt là số lượng tiến sĩ quá nhiều và tiêu chuẩn chất lượng đào tạo tiến sĩ quá thấp. Tôi đề nghị một ban thẩm định gồm những trí thức trong và ngoài nước cùng đưa ra ý kiến về việc đại học nào, giáo sư nào hội đủ tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ, và chừng nào tiêu chuẩn đó ở Việt Nam chưa ngang bằng quốc tế thì tiến sĩ nên được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Hình như những vấn đề này ông đã nói từ mười mấy năm trước, ông thấy những vị lãnh đạo có nghe ông không?
Tôi không hiểu sao lãnh đạo không quan tâm vấn đề rất quan trọng này. Những vấn đề này tôi đã viết lên báo Nhân Dân 10 năm trước, trên báo Tia Sáng bốn năm trước và gần đây, cuối năm 2005, nhận được yêu cầu góp ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi đã có thư trả lời và đưa kiến nghị phải giải quyết từ căn bản cơ chế đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Nhưng lãnh đạo của Bộ đã trả lời là những biện pháp của tôi khó thực hiện ở Việt Nam. Chẳng hiểu tại sao lại khó thực hiện. Vì vậy mà tình hình vẫn như cũ.
Theo ông thì tại sao có hiện tượng lạm phát bằng cấp?
Sau giải phóng, người ta đề bạt những người có công trong kháng chiến giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo các cấp, rồi đề ra tiêu chuẩn hóa cán bộ là phải có bằng đại học, cho cán bộ đi đào tạo hệ tại chức, hình thành một kiểu học sơ sơ, trong đó quan hệ thầy trò lủng củng. Thầy lương thấp hơn trò, trò bồi dưỡng thầy để thi cử lấy bằng cho dễ... Trong công việc thì người có bằng dễ được đề bạt, được đối xử khác với người không có bằng. Một chuỗi quan hệ nhân-quả như vậy hình thành nên tư tưởng chuộng bằng cấp. Lẽ ra chuyện tiêu chuẩn hóa cán bộ và cho học tại chức này chỉ áp dụng trong thời gian quá độ chừng 10 năm rồi chấm dứt ngay nhưng rất tiếc vẫn kéo dài cho đến bây giờ.
Về hiện tượng lạm phát văn bằng tiến sĩ theo tôi có ba nguyên nhân: Một là những người làm chính sách giáo dục không hiểu ý nghĩa của học vị này, cứ tưởng đưa ra một số hướng dẫn (về hình thức của luận án, về hội đồng chấm luận án,...) và các tiêu chí định lượng cho các viện nghiên cứu hoặc cho các đại học (số tiến sĩ, số phó giáo sư, giáo sư trong cơ quan đào tạo) là có thể “sản xuất” ra tiến sĩ. Hai là cơ chế đề bạt cán bộ dựa vào bằng cấp làm cho ai cũng nghĩ phải lấy cho được bằng tiến sĩ dù nhiều người không có thì giờ và không có khả năng nghiên cứu. Nguyên nhân thứ ba, rất nghiêm trọng, là Chính phủ đã sai lầm cho chuyển bằng phó tiến sĩ trước đây thành tiến sĩ. Thành ra có hiện tượng chỉ trong một ngày số tiến sĩ ra đời hàng loạt.
Tôi vẫn còn giữ ấn tượng quá ngạc nhiên và bàng hoàng trong khi tham dự một buổi hội thảo nhỏ tại Hà Nội vào năm 1999. Hôm đó chỉ có độ 15 người tham dự và trao đổi ý kiến về một vấn đề kinh tế của Việt Nam. Tôi bàng hoàng vì thấy mọi người gọi nhau là tiến sĩ, một hiện tượng chỉ có thể thấy ở những hội nghị rất cao cấp về học thuật trên thế giới. Lẽ ra Chính phủ phải thận trọng.
Ở Nhật Bản và nhiều nước khác, học vị tiến sĩ chỉ dành cho những người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu, còn quan chức nhà nước và lãnh đạo doanh nghiệp chỉ cần có bằng đại học là đủ. Ở nước mình, tôi thấy phó giám đốc một sở ở miền núi cũng có bằng tiến sĩ, nhiều tổng giám đốc doanh nghiệp quốc doanh cũng có bằng tiến sĩ. Và việc Nhà nước cho tiền cán bộ đi học tiến sĩ là một chuyện rất ngược đời.
Theo ông, Việt Nam trên đường phát triển có điều gì cần học từ Nhật?
Có nhiều lắm nhưng tôi chỉ kể ra đây hai điểm:
Một là, học thật, làm thật, đề cao tính thực chất. Tinh thần cầu học của người Nhật rất mạnh. Vào thời Minh Trị, họ cử người ra nước ngoài học, thuê chuyên viên, kỹ sư, học giả người nước ngoài đến Nhật để tư vấn, giảng dạy những lĩnh vực họ thấy còn yếu. Đặc biệt sách kinh điển và nhiều sách hay khác được tích cực du nhập vào Nhật, được những người có uy tín về chuyên môn dịch sang tiếng Nhật với cả sự cẩn trọng, nghiêm túc. Có nhiều cuốn sách được nhiều người dịch nhiều lần khi thấy bản dịch của người đi trước chưa chính xác hoặc chú giải chưa đầy đủ. Còn chuyện làm hàng giả thì ở Nhật hầu như không hề nghe thấy.
Hai là, tôn vinh tinh thần trách nhiệm, tận tụy của mọi người dù ở cương vị nào, ở giai tầng xã hội nào. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Làm sao để trong xã hội ai cũng thấy hạnh phúc khi chọn được một nghề hợp với khả năng của mình, được xã hội trân trọng và tay nghề càng cao càng được thù lao xứng đáng.
Ông Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapore, trong cuốn hồi ký From Third World to First - The Singapore Story: 1965-2000 (HarperCollins Publishers, 2000) có nhận xét rất đúng khi quan sát trực tiếp sự lành nghề và thái độ yêu nghề của một người đầu bếp tại một khách sạn ở Nhật vào những năm đầu thập niên 1970. Ông cho rằng người Nhật dù làm nghề gì cũng hãnh diện và luôn mong muốn hoàn thành xuất sắc vai trò của mình, do đó mà ở Nhật năng suất lao động cao và hàng sản xuất ra luôn đạt được sự hoàn hảo về phẩm chất. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” vốn dĩ là truyền thống rất đẹp mà Việt Nam đã có từ rất lâu. Bây giờ chính là lúc tinh thần đó cần được phát huy trong thế hệ trẻ.
Vậy có thể gọi tên những phẩm chất được đề cao như trên là tinh thần Võ sĩ đạo được không?
Có lẽ phần lớn liên quan đến hoặc bắt nguồn từ tinh thần võ sĩ đạo. Võ sĩ đạo là tinh thần thượng võ hành động vì việc nghĩa, đề cao lòng can đảm và trách nhiệm của cá nhân. Ngoài những phẩm chất trên, còn phải kể đến tinh thần dân tộc (trong nghĩa tích cực) của người Nhật - mọi người vì sự phát triển của đất nước, và tránh sức ép của ngoại bang. Để được như vậy, người Nhật đã học cách quên quá khứ. “Lý lịch” quá khứ hầu như không bao giờ trở thành chướng ngại trong việc sử dụng nhân tài. Câu chuyện của Shibusawa Eiichi (mà tôi đã có dịp giới thiệu trên số báo Xuân DNSGCT 2006) là điển hình cho tinh thần hòa hợp dân tộc và trọng nhân tài của lãnh đạo Nhật Bản.
Khi chính quyền Minh Trị Thiên hoàng bắt đầu xây dựng đất nước và cần chuyên gia am hiểu về tài chính, ngân hàng, được thông tin về Shibusawa Eiichi - vốn là người được trọng dụng trong thời phong kiến Edo đã bị lật đổ, chính phủ mới đã quyết định mời ông tham gia chính quyền và cho giữ ngay một chức vụ quan trọng trong Bộ Tài chính. Với cương vị và uy tín này, Shibusaza bắt đầu thiết lập hệ thống ngân hàng hiện đại mà sau này trở thành kiểu mẫu cho một loạt các ngân hàng công và tư. Trong thập niên 1880 và 1890, thấy đất nước mình còn thiếu nhiều thứ để trở thành một nước phát triển, Eiichi lập ra hàng chục công ty hiện đại trong các lĩnh vực kéo sợi, dệt vải, đóng tàu, hàng hải, bảo hiểm, đường sắt, v.v… Nhiều nhà phân tích đã gọi Shibusawa là ông tổ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản.
Có bao giờ ông cảm nhận sức ép từ tinh thần trách nhiệm và tinh thần dân tộc của người Nhật đi quá giới hạn hay tạo ra tác dụng ngược trong chính hệ thống của họ không?
Ở Nhật, gần đây có trường hợp một bộ trưởng đã tự tử vì không hoàn thành trách nhiệm và bị phanh phui vì một sơ suất đáng xấu hổ. Mấy năm trước có một người lái xe bus đã tự tử vì ân hận đã vô ý cán chết một em bé. Trong công ty thì vì trách nhiệm, có người làm quá sức dẫn đến tử vong nơi công sở hay vì công việc mà hy sinh hạnh phúc gia đình là có thật. Đúng là tinh thần trách nhiệm như vậy đã vượt quá giới hạn của thường thức. Nhưng nhìn chung hiện nay sự cân bằng giữa các giá trị đang dần dần được xác lập trở lại.
Bản thân ông sống trong xã hội như vậy có bị sức ép lớn?
Hầu như là không. Có lẽ nhờ nghề dạy học khá tự do, trách nhiệm với sinh viên, với trường cũng lớn nhưng tính nhu nhuyễn về thì giờ khá cao nên dễ điều hòa.
Công việc của ông có vẻ ung dung như vậy không biết có phải do máu Việt trong ông?
Định nghĩa thế nào là máu Việt?
Máu Việt chuộng sự vừa phải.
Nếu vậy thì vừa phải là một chủ nghĩa tốt. Tôi thấy người Việt Nam mình biết giữ cân bằng cho cuộc sống. Mặc dù những điều kiện môi trường, mức sống chưa cao, tai nạn giao thông và vệ sinh có vấn đề nhưng lạ là tuổi thọ người Việt rất khá. Tại nhiều cơ quan khi tan sở buổi chiều thấy nhiều người chơi cầu lông, bóng bàn trước khi về nhà. Nhiều người lớn tuổi chăm chỉ tập dưỡng sinh để sống khỏe. Tôi ra Hà Nội thấy tinh thần tập thể dục của người dân rất cao! Buổi sáng sớm người đứng tập thể dục quanh hồ Hoàn Kiếm rất đông!
Đó là vì nhà họ không có chỗ tập đấy ạ! Nghe nói hồi xưa mộng của giáo sư là trở thành thầy giáo dạy văn chương. Sang Nhật sao ông không nghĩ về thế mạnh của mình và tiếp tục ước mơ đó?
Hồi đó tôi cũng rất thích văn học Nhật Bản. Nhưng ở tuổi hai mươi, tôi chưa nghĩ nhiều. Thích văn chương nhưng học văn bằng tiếng nước ngoài tôi sợ không cảm nhận được hết. Năm 1968, Nhật Bản lần đầu tiên trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, bởi vậy tự nhiên tôi quan tâm đến kinh tế và muốn học kinh nghiệm của Nhật, mong hòa bình trở về có thể làm cái gì hữu ích cho đất nước. Với lại chưa học thì chưa cái gì là thế mạnh của mình.
Giáo sư sống ở một đất nước phát triển vào bậc nhất về khoa học kỹ thuật mà đồ vật ông dùng chẳng “phát triển” tí nào: máy ảnh Olympus 12 năm tuổi, điện thoại di động màn hình độc màu xanh Nokia 8250… Đó là cái thú, lối sống hay tại cái máu nông dân bảo thủ của ông?
Nếu “bảo thủ” có nghĩa là những đồ vật cũ còn dùng được thì không chịu thay cái mới, có lẽ tôi hơi bảo thủ thật. Ngay cả đồng hồ, bút, túi xách... cái gì không hư thì không bỏ được. Sống ở Nhật mà tôi mới bắt đầu dùng điện thoại di động năm ngoái đây vì thấy có bao giờ mình cần liên lạc gấp đâu! Về nhà có điện thoại bàn. Ở cơ quan có điện thoại cơ quan. Nhà cách sở làm một tiếng đồng hồ di chuyển, trong thời gian đó nếu cần liên lạc thì gọi điện thoại công cộng. Nhưng vài năm trở lại đây, ngoài đường khó kiếm ra những buồng điện thoại công cộng như ngày xưa nên để tiện thì phải dùng thêm di động thôi.
Xã hội mà nhiều người xài đồ như kiểu giáo sư thì Nhật Bản đâu có phát triển được như ngày nay! Ông có thú vui gì để thư giãn hay tận hưởng từ cuộc sống?
Có lẽ thú vui của tôi là chơi piano. Dĩ nhiên là nghiệp dư thôi, nhưng mỗi lúc ngồi xuống chơi những “tình khúc vượt thời gian” của Việt Nam thì không gì tuyệt vời bằng! À mà kỳ này về chắc phải mua máy ảnh kỹ thuật số không biết chừng! Hôm nọ ở Hà Nội rất vất vả, tìm mãi mới mua được phim để bỏ vô máy…
Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trò chuyện thú vị này.
Theo QUẾ ANH
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
“Nhan sắc” Nhật
“Nhan sắc” Nhật
Có một ví von thú vị về nước Nhật thế này: “Nước Nhật giống như một cô gái nhan sắc trung bình nhưng có ý thức chăm chút bản thân…”. Thoạt nhìn, “làn da, nước tóc” của cô chỉ vừa đủ để không phụ lòng người thưởng lãm. Nhưng có sống với cô mới thấy sự khéo léo và lịch duyệt mới là điều khiến người ta phải trầm trồ thán phục.
Đến Nhật Bản vào cuối thu khi tiết trời bắt đầu chuyển đông, lá phong từ xanh ngả sang vàng, từ vàng đã ngả sang màu đỏ tía. Mùa thu ở Nhật đã chín, nhưng vẻ đẹp của cảnh vật không làm người ta bận lòng bằng một vẻ đẹp nằm trong sự khôn ngoan, tỉ mỉ, vén khéo của người dân xứ này.
�SNhan sac� Nhat
Vườn trong chùa ở Kyoto
Shinkansen - Niềm tự hào thứ nhất của người Nhật
Từ sân bay Narita, chúng tôi về Tokyo bằng tàu cao tốc Shinkansen. Ấn tượng đầu tiên về nước Nhật là trong lành, sạch sẽ và tốc độ. Nhật Bản có hệ thống tàu điện ngầm từ cuối thế kỷ XIX, nhưng “con tàu viên đạn” Shinkansen do các kỹ sư hàng không và hàng hải chế tạo năm 1964 đã làm thay đổi thói quen sinh hoạt và là niềm tự hào của người Nhật. Với vận tốc 300km/g, việc đi lại giữa các thành phố lớn chỉ tốn vài giờ di chuyển. Hiện nay hệ thống tàu điện là phương tiện giao thông quan trọng nhất phục vụ 128 triệu người Nhật.
Thật khó tránh khỏi bỡ ngỡ trước hệ thống tàu điện được thiết kế chằng chịt như một tổ mối dưới lòng đất. Các trạm tàu điện đều nằm ở tầng trệt và tầng hầm của các tòa nhà lớn. Nơi nào có nhà ga đều trở thành khu thương mại sầm uất. Các bảng chỉ dẫn đường tàu bằng tiếng Nhật dù đã được phiên âm ra tiếng Latin vẫn là một thách đố lớn đối với người dân tỉnh lẻ và du khách. Hệ thống tàu điện ở Nhật được đánh giá là quy mô và chính xác nhất thế giới. Trừ những chuyến tàu siêu tốc đi từ thành phố này sang thành phố khác có thời gian chờ tàu trên dưới một tiếng, tàu trong nội thành chỉ trong vòng ba đến năm phút là có chuyến. Hành khách có thể chờ tàu ở sân ga, đi mua sắm, ngồi quán cà phê hay ăn mì chạy (quán mì không có ghế, vừa ăn vừa đứng chờ tàu đến là… chạy).
Đi tàu điện vào giờ cao điểm ở Tokyo mới thấy hết tính chiến lược của hệ thống giao thông công cộng ở một đô thị lớn. Vào giờ cao điểm, sân ga rợp một màu đen của áo vest. Người trên sân ga xuôi ngược như thác lũ, còn người trong các toa tàu thì chật cứng như nêm. Toa tàu tưởng không còn chỗ đứng nhưng cả chục người mới vào cứ ép vào, ép vào nữa… rồi cũng lọt. Trên tàu, tất cả điện thoại di động và thiết bị nghe nhìn phải để ở chế độ yên lặng vì giờ đi tàu cũng là giờ mọi người tranh thủ chợp mắt, đọc sách hay đơn giản là “tạm đóng” toàn bộ giác quan để nghỉ ngơi.
Không khí trong tàu điện ngầm giờ cao điểm thì ngộp vì chật, giờ tan tầm thì đầy ắp những gương mặt mỏi mệt sau một ngày làm việc. Nhiều thế hệ người Nhật đã quen với tàu điện từ cuối thế kỷ XIX nên cũng dễ hiểu vì sao họ kiên nhẫn và bình thản như vậy khi đi tàu. Chợt nhớ cảm giác chạy xe máy ở quê nhà: chạm nắng, chạm gió, nghểnh đầu lên là mây trắng, trời xanh. Có bụi đấy, khói đấy, kẹt xe đấy, nhưng sao mà quý cái không gian trên mặt đất, được lái chiếc xe hai bánh rù rì nhưng thênh thênh tự do.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Daibutsu-den Hall - Chùa gỗ lớn nhất thế giới ở Nara Hiền hòa một góc làng gốm ở Tokoname
Vệ sinh công cộng - Niềm tự hào thứ hai
Một điều để lại ấn tượng rất đẹp trong lòng du khách ngoại quốc đến Nhật là chất lượng vệ sinh công cộng. Tất cả các trạm ga tàu điện đều có nhiều nhà vệ sinh hiện đại và rất sạch, có thiết kế dành riêng cho người già, người tàn tật, trẻ sơ sinh. Có lần, loay hoay mãi trong nhà vệ sinh vì tìm hoài không ra một cái nút nào để bấm cho WC hoạt động. Đèn tự động sáng, xe tự động lái, cửa tự động mở thì thấy rồi nhưng WC tự động thì mình hoàn toàn… chưa nghĩ tới. Nghĩ vậy, tôi đành bước ra kiếm người hỏi, vừa mở cửa thì bỗng nước tự động dội… cái ào! Lần ở trạm khác, chỉ cần đứng lên hay chạm một ngón tay vào bộ phận cảm biến là… xong! Với hệ thống tự động như vậy, ngay cả người lười nhất cũng chẳng còn cơ hội để mất vệ sinh.
Nhật vốn nổi tiếng về công nghiệp xử lý rác. Thùng rác được phân thành ba loại dành cho: vỏ chai, vỏ lon; giấy báo, tạp chí và các chất có thể hủy bằng nhiệt. Không chỉ rác được quan tâm, ngay cả thùng rác ở xứ bạn cũng được ưu ái. Một trong những cảnh tượng làm chúng tôi ngạc nhiên và khâm phục người Nhật là cảnh lau thùng rác ở sân ga. Sáng sáng, nhân viên vệ sinh của ga cần mẫn xách thùng nước đi lau từng thùng rác, cũng như trong nhà vệ sinh công cộng, người lao công ôm bồn cầu chà say sưa là chuyện rất bình thường. Ngoài đường, chúng tôi luôn gặp những tốp nhân viên vệ sinh đi nhặt từng cọng rác, moi từng tàn thuốc trong bụi cây. Dường như đối với bất kỳ công việc gì, một khi đã làm, người Nhật đều làm nghiêm túc và hết mình.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Ginza - khu sang trọng được mệnh danh là Fifth Avenue (New York) của Tokyo Một bữa cơm truyền thống Nhật
Những điều trông thấy mà…
Nói người Nhật dùng đồ Nhật có vẻ hơi thừa vì hàng Nhật trên thế giới nổi tiếng tốt là thế. Nhưng đến Nhật mới thấy tư duy xài đồ nội địa của người Nhật rất đáng để học tập. Tính dân tộc của người Nhật thể hiện ở sự cân nhắc, tính toán và hợp tác của nhà sản xuất và người tiêu dùng vì lợi ích quốc gia. Nhật sản xuất xe hơi, xe máy kích cỡ lớn, tiện nghi, sang trọng để xuất khẩu, nhưng dân Nhật lại chuộng xe có thiết kế nhỏ gọn để tiết kiệm năng lượng và diện tích. Đến Nhật, nào thấy thanh niên đi những chiếc xe thế hệ mới như Dylan, SH, PS!
Chiếc máy ảnh Panasonic hiệu Lumix mới mua năm ngoái của tôi bây giờ ở Nhật không thấy ai bán nữa. Nhưng những chiếc Cub cánh én, Cub Customs khiêm tốn từ thập niên 1980-1990 thì vẫn được “trọng dụng”. Xe tay ga, môtô ở Nhật nhỏ xíu nhưng phóng ào ào trên đường. Người dân Nhật chuộng những sản phẩm tiết kiệm năng lượng vì họ quan tâm đến môi trường. Một ý thức đáng học tập nữa là dù ở trung tâm thành phố hay ngoài ngoại ô, bạn sẽ không bao giờ nghe tiếng còi xe! Có lần, tôi vô tình chạy xe đạp trước mũi một chiếc xe hơi, nhưng chiếc xe ấy không bấm còi mà kiên nhẫn chạy chậm sau xe đạp một đoạn dài, mãi đến khi một người bạn nhắc, tôi mới biết để tránh đường và xe hơi mới tăng tốc.
Người Nhật có truyền thống chú trọng đến hình thức. Hàng hóa ở Nhật có cả ti tỉ thứ nhỏ nhỏ, xinh xinh quyến rũ con mắt và túi tiền của mọi người. Văn hóa trưng bày ở Nhật là cả một nghệ thuật tạo cho người ta cảm giác hàng hóa và khách hàng được nâng niu và trân trọng một cách đặc biệt. Điều đó cũng tương tự trong cách người Nhật thể hiện bản thân. Tuy bề ngoài không thu hút nhưng nhờ chú trọng trang phục, họ có vẻ ngoài đường hoàng, thanh lịch. Có một cái lạ là đàn ông xứ này rất điệu. Họ chăm chút từ cách ăn mặc đến... cách trang điểm! Ngạc nhiên nhất có lẽ là mốt tỉa lông mày đang thịnh hành trong nam giới. “Râu hùm, hàm én, mày ngài” dường như không là tiêu chuẩn của cái đẹp đại trượng phu ở Nhật. Với họ, đẹp bây giờ là “mày lá liễu”!
Ngẫm hay muôn sự tại...
Có một câu danh ngôn trong nghệ thuật quản lý, đại ý nếu muốn cấp dưới có ít ý kiến thì hãy đề ra thật nhiều nguyên tắc. Kỳ công mà người Nhật đã và đang làm trong nhiều thế kỷ qua là xây dựng một xã hội trật tự và tinh giản bằng hệ thống những nguyên tắc phức tạp. Đằng sau những tiện ích tự động hóa là cả một bộ máy tinh vi điều khiển, đằng sau đường nét thanh thoát trong kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản là sự khắt khe của cả một truyền thống chuẩn mực về cái đẹp.
Nhiều người ngoại quốc thường nói về Nhật Bản như một đất nước có một trật tự tuyệt vời đến mức khó hiểu. Một đất nước mở cửa và đón nhận văn hóa phương Tây từ rất sớm nhưng văn hóa truyền thống - những gì người Nhật tự hào thì không bao giờ thay đổi. Một đất nước sử dụng hệ thống Hán ngữ mà người Nhật ra nước ngoài và người nước ngoài đến Nhật vẫn có thể dễ dàng làm ăn sinh sống.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Shibuya - một khu ăn chơi thời thượng ở Tokyo Thầy trò Geisha ở Hanami-koji
Thật khó nói hết về những biểu hiện của lòng tự hào dân tộc, tính tự trọng của cá nhân, ý thức hòa hợp với thiên nhiên, mỹ thuật đề cao sự tinh giản, cùng những nguyên tắc hành xử phức tạp trong xã hội Nhật. Nhưng ngẫm về nguồn gốc - cái gì đã hun đúc nên tinh thần Nhật, câu trả lời có thể nằm trong ảnh hưởng sâu sắc của đạo Shinto đối với dân tộc Nhật Bản. Shinto (Thần giáo) đối với người Nhật cũng gần như đạo thờ ông bà đối với người Việt.
Xuất hiện từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Shinto chủ trương tôn trọng truyền thống, gia đình; một lối sống giản dị hòa hợp với tự nhiên; đề cao sự thanh khiết, lòng tự trọng của mỗi cá nhân; nhưng đặc biệt, Shinto có một hệ thống nghi lễ, nghi thức rất cầu kỳ. Xuyên suốt lịch sử phát triển của Nhật Bản, ảnh hưởng của đạo Shinto lên văn hóa và đời sống xã hội Nhật gần như đồng nhất với những gì mà người Nhật ngày nay tự hào về văn hóa dân tộc, thể hiện qua: kiến trúc, ẩm thực, nghệ thuật làm vườn, cắm hoa, nghi thức hành xử, thói quen cởi giày, dùng đũa gỗ, rửa tay súc miệng trước khi vào đền, chùa…
Theo QUẾ ANH
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Drew Taylor: “Không ở đâu chấp nhận tôi là một người Việt dễ dàng như Sài Gòn”
Drew Taylor:
“Không ở đâu chấp nhận tôi là một người Việt dễ dàng như Sài Gòn”
Quế Anh 09/09/2010 11:31:41 AM
Drew Taylor - Giám đốc đối ngoại Trung tâm tư vấn du học ELS, cái tên quen thuộc trong làng cộng tác viên nước ngoài của một vài tờ báo uy tín ở Sài Gòn - là người sống được giữa hai thái cực của sự nghiêm túc và hài hước. Anh có thể lên kế hoạch đến chi tiết cho “Sáu mươi năm cuộc đời”, mà cũng sẵn sàng bỏ cả ngày lang thang khắp các tiệm đồ cũ, tán chuyện với các anh xe ôm hay các chị bán hàng rong.
Anh có thể viết ra một danh sách dài vô tận những điều “Tôi yêu Việt Nam” và một danh sách khác những điều châm chọc kiểu như “Người Việt xấu xí”. Anh có tinh thần phản biện và cải cách của một trí thức, đồng thời cũng sở hữu luôn phẩm chất hồn nhiên và “thẳng ruột ngựa” của một anh chàng miền Tây mê cháo cá lóc và Honda 67.
Sau sáu năm làm việc ở Việt Nam, Drew tự nhận mình đã bị “khai trừ” khỏi các hội dành cho người nước ngoài vì anh có quá nhiều bạn bè... người Việt. Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần có dịp hội ngộ và trò chuyện với anh nhân chuyến đi công tác của anh đến San Francisco, California (Mỹ) vừa qua.
Nếu đã lên kế hoạch chi tiết cho “Sáu mươi năm cuộc đời” thì sao anh không sống ở Việt Nam luôn cho rồi?
Tôi sẽ ở Việt Nam đến 60 tuổi thôi, sau đó sẽ về lại Canada và chết ở Canada. Ít ra như vậy mới công bằng cho Canada vì cả hai đều là quê hương của tôi. Canada là nơi tôi sinh ra thì sẽ là nơi tôi nằm xuống. Còn khoảng giữa tôi dành cho Việt Nam.
Nghe giống cuộc đời cá hồi nhỉ! Cá hồi sinh ra ở sông, vùng vẫy cuộc đời ở biển, cuối đời lại làm một cuộc lội ngược dòng về sông để chết. Mà này, anh có thấy là anh tính hơi xa quá không?
Tôi là một người suy nghĩ nhiều. Không có một giây phút nào mà cái đầu tôi dừng suy nghĩ. Tôi còn tính đến việc khi chết, tôi sẽ được thiêu và người ta muốn quăng tro đi đâu cũng được. Tro không còn là tôi. Mà tôi cũng chẳng phải là nắm tro ấy, nên người ta muốn quăng đi đâu thì quăng, cho vào thùng rác cũng chẳng sao. Thẳng thắn mà nói thì trên đời này không thiếu những kẻ mà khi sống bản thân họ đã là cái thùng rác rồi.
Vâng, thực là có những cái thùng rác di động, biết làm đỏm và đầy ứ vì thừa mứa... Nhưng anh nên cho cái đầu anh nghỉ ngơi một chút. Suy nghĩ nhiều thế cũng là một dạng bệnh đấy!
Cũng tùy vào người chẩn bệnh, nhưng mọi thứ tôi nghĩ, tôi làm, tôi đều biết chính xác đó là tôi. Nếu đó có là vấn đề đi nữa thì tôi không đi tìm câu trả lời, mà tìm những cách thức khác nhau để đến với câu trả lời. Giống như để hiểu Việt Nam, người ta phải học nói tiếng Việt.
Anh học tiếng Việt thế nào, thấy có khó không?
Không, dễ lắm! Trước khi đi ngủ, uống một chai Sài Gòn đỏ. Cứ làm như thế, sau hai tuần, thì ngủ dậy sẽ biết nói tiếng Việt.
Anh nói xạo hay nhỉ!
Vậy mà nhiều người tin lắm đấy! Đùa chứ, tôi từng dành một tháng đi học ở lớp trong trường đại học nhưng không thích lớp đó vì tất cả sinh viên trong lớp đều là người nước ngoài. Tôi nghĩ không có gì bất tiện hơn là học tiếng Việt với người nước ngoài. Thế là tôi tìm gia sư. May mắn cho tôi là gia sư của tôi lại không thạo tiếng Anh.
Bởi vậy việc học tiếng Việt của tôi càng thú vị hơn bao giờ hết! Tôi luôn tận dụng mọi cơ hội để nói chuyện với mọi người, chị bán hàng ở chợ, bác xe ôm... Tôi tập nói mọi nơi mọi lúc và không bận tâm nhiều đến ngữ pháp. Có khi tôi gặp những tình huống làm tôi bối rối.
Ví dụ như...
Ở Hà Nội, người ta nói chuyện rất trang trọng, khác hẳn với ở miền Nam. Người Hà Nội họ sửa tôi mọi thứ.
Ví dụ như khi tôi nói: “Cho một ly sinh tố!”.
Người ta hỏi lại: “Một ly là gì?”.
Tôi nói: “Một ly sinh tố mà!”.
Họ nói: “Không phải, một cốc!”.
Tôi nói: “Biết rồi! Một cốc!”.
Họ lại sửa: “Không phải, biết “z”ồi mới đúng!”.
Khi tôi nói: “Xin lỗi tôi đến trễ”.
Người ta lại sửa: “Không phải “đến trễ”, đến muộn!”.
Khi tôi nói: “Vâng ạ”, người ta sửa là: “Không, phải nói là “Thế ạ”!”.
Người Sài Gòn không quan tâm đến những thứ đó vì văn hóa ở Sài Gòn quá đa dạng! Người Sài Gòn không bao giờ nói Sài Gòn là nhất. Nhưng đa số người thuộc lớp trung niên trở lên ở Hà Nội luôn nghĩ Hà Nội là nơi tuyệt vời nhất trên thế giới. Thậm chí nếu một ngày nào đó Sài Gòn biến mất trên thế gian này thì chắc cũng có vài người chẳng bận tâm.
Anh tưởng tượng thôi chứ chẳng đến nỗi như vậy đâu! Mà điều gì cho anh ý nghĩ đó?
Thói quen và đam mê của tôi là tìm hiểu con người bằng cách tương tác với họ, quan sát phản ứng của họ thông qua cảm xúc, ngôn ngữ của họ. Tôi không phải là một chuyên gia tâm lý, nhưng tôi rất thích khoa tâm lý học. Trước chuyến đi công tác ở Mỹ, có một anh phóng viên đến nói chuyện với tôi. Anh ta muốn biết tôi hiểu gì về miền Bắc và miền Nam khi viết những bài báo như tôi đã viết. Rồi anh ấy hỏi liệu tôi có lo rằng người ta đọc được sẽ tức giận hay không. Tôi nói rằng tại sao tôi phải lo? Nếu lo thì tôi đã không viết những bài báo đó.
Tôi đi và sống ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam và tôi đại diện cho tất cả những gì thuộc về văn hóa Việt Nam. Anh phóng viên nọ muốn tôi thay đổi, muốn tôi biết Hà Nội tuyệt vời thế nào và viết những điều tuyệt vời về Hà Nội. Vấn đề là tôi thích Việt Nam chứ không cảm tình riêng một thành phố nào. Tôi không hiểu tại sao có những người chỉ luôn muốn nghĩ rằng mình đúng.
Nguồn: DNSG
Subscribe to:
Posts (Atom)