on the way
1.10.2012
Học thật, làm thật là điều kiện để phát triển bền vững
Trần Văn Thọ
GS Đại học Waseda, Nhật Bản
Gặp tiến sĩ khoa học kinh tế Trần Văn Thọ, điều ngạc nhiên không phải là mái tóc bumbê gần như tóc con gái, mà là khuôn mặt học trò của một vị giáo sư ngoại ngũ tuần. Giảng dạy kinh tế tại trường đại học của một cường quốc kinh tế là Nhật Bản nhưng lại bảo thủ một cách khó hiểu trong việc sử dụng các tiện nghi của thời hiện đại.
Nhìn ông nói về những bức xúc trước thực trạng kinh tế xã hội, thấy đằng sau dáng dấp cổ điển của một vị giáo sư đại học là hình ảnh một cậu học trò nghèo, thông minh, hiếu học. Ông cười, nụ cười nhỏ và sáng rực. Sinh năm 1949 tại Quảng Nam, sang Nhật du học năm 1968, từng là thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn kinh tế của nhiều đời Thủ tướng Nhật và hiện đang là giáo sư kinh tế Đại học Waseda (Tokyo), Trần Văn Thọ là một trí thức luôn theo sát tình hình phát triển và góp ý về các vấn đề kinh tế, giáo dục của Việt Nam.
Ngoài việc cộng tác trong các Tổ Tư vấn cải cách kinh tế hoặc trong Ban Nghiên cứu chính sách của nhiều đời thủ tướng Việt Nam, sáng lập viên Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (VAPEC) tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh, giáo sư còn là cầu nối giao lưu giữa sinh viên Nhật Bản - Việt Nam và là cây bút quen thuộc trên các báo: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thanh Niên, TS...
Giáo sư từng đề nghị chọn một ngày trong năm làm ngày tổ chức thi tuyển người tài giỏi, đức độ ra làm việc nước. Nếu có một ngày như vậy thì sự khác biệt về chuyên môn, ngành nghề sẽ được giải quyết thế nào?
Về cơ bản, phải nhận thấy sự cần thiết của bề dày văn hóa đối với người ra làm việc cho đất nước. Theo ý tôi, nên chia việc tuyển người tài thành hai nhóm: Nhóm chuyên viên nghiên cứu, kỹ thuật thì kiểm tra riêng và nhóm quan chức sau này trở thành cán bộ lãnh đạo hoặc quản lý thì không cần kỹ năng đặc biệt. Năng lực diễn đạt, sự hiểu biết về văn hóa, triết học, lịch sử, luật pháp, hành chính là những yếu tố cần thiết đối với người ở nhóm thứ hai. Một khi đã có tầm nhìn, có ý thức trách nhiệm và hiểu luật pháp và cơ cấu hành chính, thì không cần học nông nghiệp mới quản lý, lãnh đạo được trong ngành nông nghiệp, không cần học thương mại mới làm được công thương.
Dĩ nhiên khi được giao công việc cụ thể thì họ sẽ tìm hiểu, học hỏi để nắm vấn đề và chuyện này sẽ không khó đối với người đã có năng lực cơ bản. Mục tiêu sau cùng của cuộc thi tuyển là tìm được những người có năng lực cơ bản và trình độ văn hóa cao, vì người có văn hóa cao thì không thể hạ mình để tư túi hay trốn tránh trách nhiệm.
Giám khảo của kỳ thi đó phải quan trọng lắm! Thế nào là một giám khảo lý tưởng?
Quan trọng chứ! Giám khảo phải là người xứng đáng về năng lực và đức độ chứ không chỉ là người nổi tiếng. Ở Nhật hay nước khác, Ban giám khảo là những người không được công bố. Gần đây báo Nhật đăng tin có trường hợp ông giáo sư nọ trong ban giám khảo của kỳ thi tuyển thẩm phán vì muốn học trò mình nhiều người đậu đã ngầm nhấn mạnh (trong các buổi giảng ở đại học) những nội dung ông sẽ ra trong đề thi. Khi chuyện này bị phát hiện, ông giáo sư bị đưa ra khỏi ban giám khảo ngay và báo chí đã lên tiếng phê phán rất nặng. Một chuyện như vậy ở Nhật đã bị xem là nặng nề lắm rồi, nói gì đến chuyện bán đề hay lộ đề.
Gần đây ở Việt Nam nhiều người quan tâm đến kế hoạch đào tạo hàng ngàn tiến sĩ. Giáo sư nghĩ sao về điều này?
Đây là vấn đề mà tôi đã góp ý cách đây nhiều năm. Nhật Bản đông dân hơn và có thu nhập đầu người gấp gần 70 lần Việt Nam, vậy mà ở nước ta số người có bằng tiến sĩ trong các lĩnh vực quản lý hành chính hoặc kinh doanh nhiều gấp mấy lần ở Nhật. Đó là một hiện tượng dị thường! Một trong những vấn đề giáo dục mà nước ta đang đối mặt là số lượng tiến sĩ quá nhiều và tiêu chuẩn chất lượng đào tạo tiến sĩ quá thấp. Tôi đề nghị một ban thẩm định gồm những trí thức trong và ngoài nước cùng đưa ra ý kiến về việc đại học nào, giáo sư nào hội đủ tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ, và chừng nào tiêu chuẩn đó ở Việt Nam chưa ngang bằng quốc tế thì tiến sĩ nên được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Hình như những vấn đề này ông đã nói từ mười mấy năm trước, ông thấy những vị lãnh đạo có nghe ông không?
Tôi không hiểu sao lãnh đạo không quan tâm vấn đề rất quan trọng này. Những vấn đề này tôi đã viết lên báo Nhân Dân 10 năm trước, trên báo Tia Sáng bốn năm trước và gần đây, cuối năm 2005, nhận được yêu cầu góp ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi đã có thư trả lời và đưa kiến nghị phải giải quyết từ căn bản cơ chế đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Nhưng lãnh đạo của Bộ đã trả lời là những biện pháp của tôi khó thực hiện ở Việt Nam. Chẳng hiểu tại sao lại khó thực hiện. Vì vậy mà tình hình vẫn như cũ.
Theo ông thì tại sao có hiện tượng lạm phát bằng cấp?
Sau giải phóng, người ta đề bạt những người có công trong kháng chiến giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo các cấp, rồi đề ra tiêu chuẩn hóa cán bộ là phải có bằng đại học, cho cán bộ đi đào tạo hệ tại chức, hình thành một kiểu học sơ sơ, trong đó quan hệ thầy trò lủng củng. Thầy lương thấp hơn trò, trò bồi dưỡng thầy để thi cử lấy bằng cho dễ... Trong công việc thì người có bằng dễ được đề bạt, được đối xử khác với người không có bằng. Một chuỗi quan hệ nhân-quả như vậy hình thành nên tư tưởng chuộng bằng cấp. Lẽ ra chuyện tiêu chuẩn hóa cán bộ và cho học tại chức này chỉ áp dụng trong thời gian quá độ chừng 10 năm rồi chấm dứt ngay nhưng rất tiếc vẫn kéo dài cho đến bây giờ.
Về hiện tượng lạm phát văn bằng tiến sĩ theo tôi có ba nguyên nhân: Một là những người làm chính sách giáo dục không hiểu ý nghĩa của học vị này, cứ tưởng đưa ra một số hướng dẫn (về hình thức của luận án, về hội đồng chấm luận án,...) và các tiêu chí định lượng cho các viện nghiên cứu hoặc cho các đại học (số tiến sĩ, số phó giáo sư, giáo sư trong cơ quan đào tạo) là có thể “sản xuất” ra tiến sĩ. Hai là cơ chế đề bạt cán bộ dựa vào bằng cấp làm cho ai cũng nghĩ phải lấy cho được bằng tiến sĩ dù nhiều người không có thì giờ và không có khả năng nghiên cứu. Nguyên nhân thứ ba, rất nghiêm trọng, là Chính phủ đã sai lầm cho chuyển bằng phó tiến sĩ trước đây thành tiến sĩ. Thành ra có hiện tượng chỉ trong một ngày số tiến sĩ ra đời hàng loạt.
Tôi vẫn còn giữ ấn tượng quá ngạc nhiên và bàng hoàng trong khi tham dự một buổi hội thảo nhỏ tại Hà Nội vào năm 1999. Hôm đó chỉ có độ 15 người tham dự và trao đổi ý kiến về một vấn đề kinh tế của Việt Nam. Tôi bàng hoàng vì thấy mọi người gọi nhau là tiến sĩ, một hiện tượng chỉ có thể thấy ở những hội nghị rất cao cấp về học thuật trên thế giới. Lẽ ra Chính phủ phải thận trọng.
Ở Nhật Bản và nhiều nước khác, học vị tiến sĩ chỉ dành cho những người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu, còn quan chức nhà nước và lãnh đạo doanh nghiệp chỉ cần có bằng đại học là đủ. Ở nước mình, tôi thấy phó giám đốc một sở ở miền núi cũng có bằng tiến sĩ, nhiều tổng giám đốc doanh nghiệp quốc doanh cũng có bằng tiến sĩ. Và việc Nhà nước cho tiền cán bộ đi học tiến sĩ là một chuyện rất ngược đời.
Theo ông, Việt Nam trên đường phát triển có điều gì cần học từ Nhật?
Có nhiều lắm nhưng tôi chỉ kể ra đây hai điểm:
Một là, học thật, làm thật, đề cao tính thực chất. Tinh thần cầu học của người Nhật rất mạnh. Vào thời Minh Trị, họ cử người ra nước ngoài học, thuê chuyên viên, kỹ sư, học giả người nước ngoài đến Nhật để tư vấn, giảng dạy những lĩnh vực họ thấy còn yếu. Đặc biệt sách kinh điển và nhiều sách hay khác được tích cực du nhập vào Nhật, được những người có uy tín về chuyên môn dịch sang tiếng Nhật với cả sự cẩn trọng, nghiêm túc. Có nhiều cuốn sách được nhiều người dịch nhiều lần khi thấy bản dịch của người đi trước chưa chính xác hoặc chú giải chưa đầy đủ. Còn chuyện làm hàng giả thì ở Nhật hầu như không hề nghe thấy.
Hai là, tôn vinh tinh thần trách nhiệm, tận tụy của mọi người dù ở cương vị nào, ở giai tầng xã hội nào. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Làm sao để trong xã hội ai cũng thấy hạnh phúc khi chọn được một nghề hợp với khả năng của mình, được xã hội trân trọng và tay nghề càng cao càng được thù lao xứng đáng.
Ông Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapore, trong cuốn hồi ký From Third World to First - The Singapore Story: 1965-2000 (HarperCollins Publishers, 2000) có nhận xét rất đúng khi quan sát trực tiếp sự lành nghề và thái độ yêu nghề của một người đầu bếp tại một khách sạn ở Nhật vào những năm đầu thập niên 1970. Ông cho rằng người Nhật dù làm nghề gì cũng hãnh diện và luôn mong muốn hoàn thành xuất sắc vai trò của mình, do đó mà ở Nhật năng suất lao động cao và hàng sản xuất ra luôn đạt được sự hoàn hảo về phẩm chất. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” vốn dĩ là truyền thống rất đẹp mà Việt Nam đã có từ rất lâu. Bây giờ chính là lúc tinh thần đó cần được phát huy trong thế hệ trẻ.
Vậy có thể gọi tên những phẩm chất được đề cao như trên là tinh thần Võ sĩ đạo được không?
Có lẽ phần lớn liên quan đến hoặc bắt nguồn từ tinh thần võ sĩ đạo. Võ sĩ đạo là tinh thần thượng võ hành động vì việc nghĩa, đề cao lòng can đảm và trách nhiệm của cá nhân. Ngoài những phẩm chất trên, còn phải kể đến tinh thần dân tộc (trong nghĩa tích cực) của người Nhật - mọi người vì sự phát triển của đất nước, và tránh sức ép của ngoại bang. Để được như vậy, người Nhật đã học cách quên quá khứ. “Lý lịch” quá khứ hầu như không bao giờ trở thành chướng ngại trong việc sử dụng nhân tài. Câu chuyện của Shibusawa Eiichi (mà tôi đã có dịp giới thiệu trên số báo Xuân DNSGCT 2006) là điển hình cho tinh thần hòa hợp dân tộc và trọng nhân tài của lãnh đạo Nhật Bản.
Khi chính quyền Minh Trị Thiên hoàng bắt đầu xây dựng đất nước và cần chuyên gia am hiểu về tài chính, ngân hàng, được thông tin về Shibusawa Eiichi - vốn là người được trọng dụng trong thời phong kiến Edo đã bị lật đổ, chính phủ mới đã quyết định mời ông tham gia chính quyền và cho giữ ngay một chức vụ quan trọng trong Bộ Tài chính. Với cương vị và uy tín này, Shibusaza bắt đầu thiết lập hệ thống ngân hàng hiện đại mà sau này trở thành kiểu mẫu cho một loạt các ngân hàng công và tư. Trong thập niên 1880 và 1890, thấy đất nước mình còn thiếu nhiều thứ để trở thành một nước phát triển, Eiichi lập ra hàng chục công ty hiện đại trong các lĩnh vực kéo sợi, dệt vải, đóng tàu, hàng hải, bảo hiểm, đường sắt, v.v… Nhiều nhà phân tích đã gọi Shibusawa là ông tổ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản.
Có bao giờ ông cảm nhận sức ép từ tinh thần trách nhiệm và tinh thần dân tộc của người Nhật đi quá giới hạn hay tạo ra tác dụng ngược trong chính hệ thống của họ không?
Ở Nhật, gần đây có trường hợp một bộ trưởng đã tự tử vì không hoàn thành trách nhiệm và bị phanh phui vì một sơ suất đáng xấu hổ. Mấy năm trước có một người lái xe bus đã tự tử vì ân hận đã vô ý cán chết một em bé. Trong công ty thì vì trách nhiệm, có người làm quá sức dẫn đến tử vong nơi công sở hay vì công việc mà hy sinh hạnh phúc gia đình là có thật. Đúng là tinh thần trách nhiệm như vậy đã vượt quá giới hạn của thường thức. Nhưng nhìn chung hiện nay sự cân bằng giữa các giá trị đang dần dần được xác lập trở lại.
Bản thân ông sống trong xã hội như vậy có bị sức ép lớn?
Hầu như là không. Có lẽ nhờ nghề dạy học khá tự do, trách nhiệm với sinh viên, với trường cũng lớn nhưng tính nhu nhuyễn về thì giờ khá cao nên dễ điều hòa.
Công việc của ông có vẻ ung dung như vậy không biết có phải do máu Việt trong ông?
Định nghĩa thế nào là máu Việt?
Máu Việt chuộng sự vừa phải.
Nếu vậy thì vừa phải là một chủ nghĩa tốt. Tôi thấy người Việt Nam mình biết giữ cân bằng cho cuộc sống. Mặc dù những điều kiện môi trường, mức sống chưa cao, tai nạn giao thông và vệ sinh có vấn đề nhưng lạ là tuổi thọ người Việt rất khá. Tại nhiều cơ quan khi tan sở buổi chiều thấy nhiều người chơi cầu lông, bóng bàn trước khi về nhà. Nhiều người lớn tuổi chăm chỉ tập dưỡng sinh để sống khỏe. Tôi ra Hà Nội thấy tinh thần tập thể dục của người dân rất cao! Buổi sáng sớm người đứng tập thể dục quanh hồ Hoàn Kiếm rất đông!
Đó là vì nhà họ không có chỗ tập đấy ạ! Nghe nói hồi xưa mộng của giáo sư là trở thành thầy giáo dạy văn chương. Sang Nhật sao ông không nghĩ về thế mạnh của mình và tiếp tục ước mơ đó?
Hồi đó tôi cũng rất thích văn học Nhật Bản. Nhưng ở tuổi hai mươi, tôi chưa nghĩ nhiều. Thích văn chương nhưng học văn bằng tiếng nước ngoài tôi sợ không cảm nhận được hết. Năm 1968, Nhật Bản lần đầu tiên trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, bởi vậy tự nhiên tôi quan tâm đến kinh tế và muốn học kinh nghiệm của Nhật, mong hòa bình trở về có thể làm cái gì hữu ích cho đất nước. Với lại chưa học thì chưa cái gì là thế mạnh của mình.
Giáo sư sống ở một đất nước phát triển vào bậc nhất về khoa học kỹ thuật mà đồ vật ông dùng chẳng “phát triển” tí nào: máy ảnh Olympus 12 năm tuổi, điện thoại di động màn hình độc màu xanh Nokia 8250… Đó là cái thú, lối sống hay tại cái máu nông dân bảo thủ của ông?
Nếu “bảo thủ” có nghĩa là những đồ vật cũ còn dùng được thì không chịu thay cái mới, có lẽ tôi hơi bảo thủ thật. Ngay cả đồng hồ, bút, túi xách... cái gì không hư thì không bỏ được. Sống ở Nhật mà tôi mới bắt đầu dùng điện thoại di động năm ngoái đây vì thấy có bao giờ mình cần liên lạc gấp đâu! Về nhà có điện thoại bàn. Ở cơ quan có điện thoại cơ quan. Nhà cách sở làm một tiếng đồng hồ di chuyển, trong thời gian đó nếu cần liên lạc thì gọi điện thoại công cộng. Nhưng vài năm trở lại đây, ngoài đường khó kiếm ra những buồng điện thoại công cộng như ngày xưa nên để tiện thì phải dùng thêm di động thôi.
Xã hội mà nhiều người xài đồ như kiểu giáo sư thì Nhật Bản đâu có phát triển được như ngày nay! Ông có thú vui gì để thư giãn hay tận hưởng từ cuộc sống?
Có lẽ thú vui của tôi là chơi piano. Dĩ nhiên là nghiệp dư thôi, nhưng mỗi lúc ngồi xuống chơi những “tình khúc vượt thời gian” của Việt Nam thì không gì tuyệt vời bằng! À mà kỳ này về chắc phải mua máy ảnh kỹ thuật số không biết chừng! Hôm nọ ở Hà Nội rất vất vả, tìm mãi mới mua được phim để bỏ vô máy…
Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trò chuyện thú vị này.
Theo QUẾ ANH
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
“Nhan sắc” Nhật
“Nhan sắc” Nhật
Có một ví von thú vị về nước Nhật thế này: “Nước Nhật giống như một cô gái nhan sắc trung bình nhưng có ý thức chăm chút bản thân…”. Thoạt nhìn, “làn da, nước tóc” của cô chỉ vừa đủ để không phụ lòng người thưởng lãm. Nhưng có sống với cô mới thấy sự khéo léo và lịch duyệt mới là điều khiến người ta phải trầm trồ thán phục.
Đến Nhật Bản vào cuối thu khi tiết trời bắt đầu chuyển đông, lá phong từ xanh ngả sang vàng, từ vàng đã ngả sang màu đỏ tía. Mùa thu ở Nhật đã chín, nhưng vẻ đẹp của cảnh vật không làm người ta bận lòng bằng một vẻ đẹp nằm trong sự khôn ngoan, tỉ mỉ, vén khéo của người dân xứ này.
�SNhan sac� Nhat
Vườn trong chùa ở Kyoto
Shinkansen - Niềm tự hào thứ nhất của người Nhật
Từ sân bay Narita, chúng tôi về Tokyo bằng tàu cao tốc Shinkansen. Ấn tượng đầu tiên về nước Nhật là trong lành, sạch sẽ và tốc độ. Nhật Bản có hệ thống tàu điện ngầm từ cuối thế kỷ XIX, nhưng “con tàu viên đạn” Shinkansen do các kỹ sư hàng không và hàng hải chế tạo năm 1964 đã làm thay đổi thói quen sinh hoạt và là niềm tự hào của người Nhật. Với vận tốc 300km/g, việc đi lại giữa các thành phố lớn chỉ tốn vài giờ di chuyển. Hiện nay hệ thống tàu điện là phương tiện giao thông quan trọng nhất phục vụ 128 triệu người Nhật.
Thật khó tránh khỏi bỡ ngỡ trước hệ thống tàu điện được thiết kế chằng chịt như một tổ mối dưới lòng đất. Các trạm tàu điện đều nằm ở tầng trệt và tầng hầm của các tòa nhà lớn. Nơi nào có nhà ga đều trở thành khu thương mại sầm uất. Các bảng chỉ dẫn đường tàu bằng tiếng Nhật dù đã được phiên âm ra tiếng Latin vẫn là một thách đố lớn đối với người dân tỉnh lẻ và du khách. Hệ thống tàu điện ở Nhật được đánh giá là quy mô và chính xác nhất thế giới. Trừ những chuyến tàu siêu tốc đi từ thành phố này sang thành phố khác có thời gian chờ tàu trên dưới một tiếng, tàu trong nội thành chỉ trong vòng ba đến năm phút là có chuyến. Hành khách có thể chờ tàu ở sân ga, đi mua sắm, ngồi quán cà phê hay ăn mì chạy (quán mì không có ghế, vừa ăn vừa đứng chờ tàu đến là… chạy).
Đi tàu điện vào giờ cao điểm ở Tokyo mới thấy hết tính chiến lược của hệ thống giao thông công cộng ở một đô thị lớn. Vào giờ cao điểm, sân ga rợp một màu đen của áo vest. Người trên sân ga xuôi ngược như thác lũ, còn người trong các toa tàu thì chật cứng như nêm. Toa tàu tưởng không còn chỗ đứng nhưng cả chục người mới vào cứ ép vào, ép vào nữa… rồi cũng lọt. Trên tàu, tất cả điện thoại di động và thiết bị nghe nhìn phải để ở chế độ yên lặng vì giờ đi tàu cũng là giờ mọi người tranh thủ chợp mắt, đọc sách hay đơn giản là “tạm đóng” toàn bộ giác quan để nghỉ ngơi.
Không khí trong tàu điện ngầm giờ cao điểm thì ngộp vì chật, giờ tan tầm thì đầy ắp những gương mặt mỏi mệt sau một ngày làm việc. Nhiều thế hệ người Nhật đã quen với tàu điện từ cuối thế kỷ XIX nên cũng dễ hiểu vì sao họ kiên nhẫn và bình thản như vậy khi đi tàu. Chợt nhớ cảm giác chạy xe máy ở quê nhà: chạm nắng, chạm gió, nghểnh đầu lên là mây trắng, trời xanh. Có bụi đấy, khói đấy, kẹt xe đấy, nhưng sao mà quý cái không gian trên mặt đất, được lái chiếc xe hai bánh rù rì nhưng thênh thênh tự do.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Daibutsu-den Hall - Chùa gỗ lớn nhất thế giới ở Nara Hiền hòa một góc làng gốm ở Tokoname
Vệ sinh công cộng - Niềm tự hào thứ hai
Một điều để lại ấn tượng rất đẹp trong lòng du khách ngoại quốc đến Nhật là chất lượng vệ sinh công cộng. Tất cả các trạm ga tàu điện đều có nhiều nhà vệ sinh hiện đại và rất sạch, có thiết kế dành riêng cho người già, người tàn tật, trẻ sơ sinh. Có lần, loay hoay mãi trong nhà vệ sinh vì tìm hoài không ra một cái nút nào để bấm cho WC hoạt động. Đèn tự động sáng, xe tự động lái, cửa tự động mở thì thấy rồi nhưng WC tự động thì mình hoàn toàn… chưa nghĩ tới. Nghĩ vậy, tôi đành bước ra kiếm người hỏi, vừa mở cửa thì bỗng nước tự động dội… cái ào! Lần ở trạm khác, chỉ cần đứng lên hay chạm một ngón tay vào bộ phận cảm biến là… xong! Với hệ thống tự động như vậy, ngay cả người lười nhất cũng chẳng còn cơ hội để mất vệ sinh.
Nhật vốn nổi tiếng về công nghiệp xử lý rác. Thùng rác được phân thành ba loại dành cho: vỏ chai, vỏ lon; giấy báo, tạp chí và các chất có thể hủy bằng nhiệt. Không chỉ rác được quan tâm, ngay cả thùng rác ở xứ bạn cũng được ưu ái. Một trong những cảnh tượng làm chúng tôi ngạc nhiên và khâm phục người Nhật là cảnh lau thùng rác ở sân ga. Sáng sáng, nhân viên vệ sinh của ga cần mẫn xách thùng nước đi lau từng thùng rác, cũng như trong nhà vệ sinh công cộng, người lao công ôm bồn cầu chà say sưa là chuyện rất bình thường. Ngoài đường, chúng tôi luôn gặp những tốp nhân viên vệ sinh đi nhặt từng cọng rác, moi từng tàn thuốc trong bụi cây. Dường như đối với bất kỳ công việc gì, một khi đã làm, người Nhật đều làm nghiêm túc và hết mình.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Ginza - khu sang trọng được mệnh danh là Fifth Avenue (New York) của Tokyo Một bữa cơm truyền thống Nhật
Những điều trông thấy mà…
Nói người Nhật dùng đồ Nhật có vẻ hơi thừa vì hàng Nhật trên thế giới nổi tiếng tốt là thế. Nhưng đến Nhật mới thấy tư duy xài đồ nội địa của người Nhật rất đáng để học tập. Tính dân tộc của người Nhật thể hiện ở sự cân nhắc, tính toán và hợp tác của nhà sản xuất và người tiêu dùng vì lợi ích quốc gia. Nhật sản xuất xe hơi, xe máy kích cỡ lớn, tiện nghi, sang trọng để xuất khẩu, nhưng dân Nhật lại chuộng xe có thiết kế nhỏ gọn để tiết kiệm năng lượng và diện tích. Đến Nhật, nào thấy thanh niên đi những chiếc xe thế hệ mới như Dylan, SH, PS!
Chiếc máy ảnh Panasonic hiệu Lumix mới mua năm ngoái của tôi bây giờ ở Nhật không thấy ai bán nữa. Nhưng những chiếc Cub cánh én, Cub Customs khiêm tốn từ thập niên 1980-1990 thì vẫn được “trọng dụng”. Xe tay ga, môtô ở Nhật nhỏ xíu nhưng phóng ào ào trên đường. Người dân Nhật chuộng những sản phẩm tiết kiệm năng lượng vì họ quan tâm đến môi trường. Một ý thức đáng học tập nữa là dù ở trung tâm thành phố hay ngoài ngoại ô, bạn sẽ không bao giờ nghe tiếng còi xe! Có lần, tôi vô tình chạy xe đạp trước mũi một chiếc xe hơi, nhưng chiếc xe ấy không bấm còi mà kiên nhẫn chạy chậm sau xe đạp một đoạn dài, mãi đến khi một người bạn nhắc, tôi mới biết để tránh đường và xe hơi mới tăng tốc.
Người Nhật có truyền thống chú trọng đến hình thức. Hàng hóa ở Nhật có cả ti tỉ thứ nhỏ nhỏ, xinh xinh quyến rũ con mắt và túi tiền của mọi người. Văn hóa trưng bày ở Nhật là cả một nghệ thuật tạo cho người ta cảm giác hàng hóa và khách hàng được nâng niu và trân trọng một cách đặc biệt. Điều đó cũng tương tự trong cách người Nhật thể hiện bản thân. Tuy bề ngoài không thu hút nhưng nhờ chú trọng trang phục, họ có vẻ ngoài đường hoàng, thanh lịch. Có một cái lạ là đàn ông xứ này rất điệu. Họ chăm chút từ cách ăn mặc đến... cách trang điểm! Ngạc nhiên nhất có lẽ là mốt tỉa lông mày đang thịnh hành trong nam giới. “Râu hùm, hàm én, mày ngài” dường như không là tiêu chuẩn của cái đẹp đại trượng phu ở Nhật. Với họ, đẹp bây giờ là “mày lá liễu”!
Ngẫm hay muôn sự tại...
Có một câu danh ngôn trong nghệ thuật quản lý, đại ý nếu muốn cấp dưới có ít ý kiến thì hãy đề ra thật nhiều nguyên tắc. Kỳ công mà người Nhật đã và đang làm trong nhiều thế kỷ qua là xây dựng một xã hội trật tự và tinh giản bằng hệ thống những nguyên tắc phức tạp. Đằng sau những tiện ích tự động hóa là cả một bộ máy tinh vi điều khiển, đằng sau đường nét thanh thoát trong kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản là sự khắt khe của cả một truyền thống chuẩn mực về cái đẹp.
Nhiều người ngoại quốc thường nói về Nhật Bản như một đất nước có một trật tự tuyệt vời đến mức khó hiểu. Một đất nước mở cửa và đón nhận văn hóa phương Tây từ rất sớm nhưng văn hóa truyền thống - những gì người Nhật tự hào thì không bao giờ thay đổi. Một đất nước sử dụng hệ thống Hán ngữ mà người Nhật ra nước ngoài và người nước ngoài đến Nhật vẫn có thể dễ dàng làm ăn sinh sống.
�SNhan sac� Nhat �SNhan sac� Nhat
Shibuya - một khu ăn chơi thời thượng ở Tokyo Thầy trò Geisha ở Hanami-koji
Thật khó nói hết về những biểu hiện của lòng tự hào dân tộc, tính tự trọng của cá nhân, ý thức hòa hợp với thiên nhiên, mỹ thuật đề cao sự tinh giản, cùng những nguyên tắc hành xử phức tạp trong xã hội Nhật. Nhưng ngẫm về nguồn gốc - cái gì đã hun đúc nên tinh thần Nhật, câu trả lời có thể nằm trong ảnh hưởng sâu sắc của đạo Shinto đối với dân tộc Nhật Bản. Shinto (Thần giáo) đối với người Nhật cũng gần như đạo thờ ông bà đối với người Việt.
Xuất hiện từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Shinto chủ trương tôn trọng truyền thống, gia đình; một lối sống giản dị hòa hợp với tự nhiên; đề cao sự thanh khiết, lòng tự trọng của mỗi cá nhân; nhưng đặc biệt, Shinto có một hệ thống nghi lễ, nghi thức rất cầu kỳ. Xuyên suốt lịch sử phát triển của Nhật Bản, ảnh hưởng của đạo Shinto lên văn hóa và đời sống xã hội Nhật gần như đồng nhất với những gì mà người Nhật ngày nay tự hào về văn hóa dân tộc, thể hiện qua: kiến trúc, ẩm thực, nghệ thuật làm vườn, cắm hoa, nghi thức hành xử, thói quen cởi giày, dùng đũa gỗ, rửa tay súc miệng trước khi vào đền, chùa…
Theo QUẾ ANH
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Drew Taylor: “Không ở đâu chấp nhận tôi là một người Việt dễ dàng như Sài Gòn”
Drew Taylor:
“Không ở đâu chấp nhận tôi là một người Việt dễ dàng như Sài Gòn”
Quế Anh 09/09/2010 11:31:41 AM
Drew Taylor - Giám đốc đối ngoại Trung tâm tư vấn du học ELS, cái tên quen thuộc trong làng cộng tác viên nước ngoài của một vài tờ báo uy tín ở Sài Gòn - là người sống được giữa hai thái cực của sự nghiêm túc và hài hước. Anh có thể lên kế hoạch đến chi tiết cho “Sáu mươi năm cuộc đời”, mà cũng sẵn sàng bỏ cả ngày lang thang khắp các tiệm đồ cũ, tán chuyện với các anh xe ôm hay các chị bán hàng rong.
Anh có thể viết ra một danh sách dài vô tận những điều “Tôi yêu Việt Nam” và một danh sách khác những điều châm chọc kiểu như “Người Việt xấu xí”. Anh có tinh thần phản biện và cải cách của một trí thức, đồng thời cũng sở hữu luôn phẩm chất hồn nhiên và “thẳng ruột ngựa” của một anh chàng miền Tây mê cháo cá lóc và Honda 67.
Sau sáu năm làm việc ở Việt Nam, Drew tự nhận mình đã bị “khai trừ” khỏi các hội dành cho người nước ngoài vì anh có quá nhiều bạn bè... người Việt. Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần có dịp hội ngộ và trò chuyện với anh nhân chuyến đi công tác của anh đến San Francisco, California (Mỹ) vừa qua.
Nếu đã lên kế hoạch chi tiết cho “Sáu mươi năm cuộc đời” thì sao anh không sống ở Việt Nam luôn cho rồi?
Tôi sẽ ở Việt Nam đến 60 tuổi thôi, sau đó sẽ về lại Canada và chết ở Canada. Ít ra như vậy mới công bằng cho Canada vì cả hai đều là quê hương của tôi. Canada là nơi tôi sinh ra thì sẽ là nơi tôi nằm xuống. Còn khoảng giữa tôi dành cho Việt Nam.
Nghe giống cuộc đời cá hồi nhỉ! Cá hồi sinh ra ở sông, vùng vẫy cuộc đời ở biển, cuối đời lại làm một cuộc lội ngược dòng về sông để chết. Mà này, anh có thấy là anh tính hơi xa quá không?
Tôi là một người suy nghĩ nhiều. Không có một giây phút nào mà cái đầu tôi dừng suy nghĩ. Tôi còn tính đến việc khi chết, tôi sẽ được thiêu và người ta muốn quăng tro đi đâu cũng được. Tro không còn là tôi. Mà tôi cũng chẳng phải là nắm tro ấy, nên người ta muốn quăng đi đâu thì quăng, cho vào thùng rác cũng chẳng sao. Thẳng thắn mà nói thì trên đời này không thiếu những kẻ mà khi sống bản thân họ đã là cái thùng rác rồi.
Vâng, thực là có những cái thùng rác di động, biết làm đỏm và đầy ứ vì thừa mứa... Nhưng anh nên cho cái đầu anh nghỉ ngơi một chút. Suy nghĩ nhiều thế cũng là một dạng bệnh đấy!
Cũng tùy vào người chẩn bệnh, nhưng mọi thứ tôi nghĩ, tôi làm, tôi đều biết chính xác đó là tôi. Nếu đó có là vấn đề đi nữa thì tôi không đi tìm câu trả lời, mà tìm những cách thức khác nhau để đến với câu trả lời. Giống như để hiểu Việt Nam, người ta phải học nói tiếng Việt.
Anh học tiếng Việt thế nào, thấy có khó không?
Không, dễ lắm! Trước khi đi ngủ, uống một chai Sài Gòn đỏ. Cứ làm như thế, sau hai tuần, thì ngủ dậy sẽ biết nói tiếng Việt.
Anh nói xạo hay nhỉ!
Vậy mà nhiều người tin lắm đấy! Đùa chứ, tôi từng dành một tháng đi học ở lớp trong trường đại học nhưng không thích lớp đó vì tất cả sinh viên trong lớp đều là người nước ngoài. Tôi nghĩ không có gì bất tiện hơn là học tiếng Việt với người nước ngoài. Thế là tôi tìm gia sư. May mắn cho tôi là gia sư của tôi lại không thạo tiếng Anh.
Bởi vậy việc học tiếng Việt của tôi càng thú vị hơn bao giờ hết! Tôi luôn tận dụng mọi cơ hội để nói chuyện với mọi người, chị bán hàng ở chợ, bác xe ôm... Tôi tập nói mọi nơi mọi lúc và không bận tâm nhiều đến ngữ pháp. Có khi tôi gặp những tình huống làm tôi bối rối.
Ví dụ như...
Ở Hà Nội, người ta nói chuyện rất trang trọng, khác hẳn với ở miền Nam. Người Hà Nội họ sửa tôi mọi thứ.
Ví dụ như khi tôi nói: “Cho một ly sinh tố!”.
Người ta hỏi lại: “Một ly là gì?”.
Tôi nói: “Một ly sinh tố mà!”.
Họ nói: “Không phải, một cốc!”.
Tôi nói: “Biết rồi! Một cốc!”.
Họ lại sửa: “Không phải, biết “z”ồi mới đúng!”.
Khi tôi nói: “Xin lỗi tôi đến trễ”.
Người ta lại sửa: “Không phải “đến trễ”, đến muộn!”.
Khi tôi nói: “Vâng ạ”, người ta sửa là: “Không, phải nói là “Thế ạ”!”.
Người Sài Gòn không quan tâm đến những thứ đó vì văn hóa ở Sài Gòn quá đa dạng! Người Sài Gòn không bao giờ nói Sài Gòn là nhất. Nhưng đa số người thuộc lớp trung niên trở lên ở Hà Nội luôn nghĩ Hà Nội là nơi tuyệt vời nhất trên thế giới. Thậm chí nếu một ngày nào đó Sài Gòn biến mất trên thế gian này thì chắc cũng có vài người chẳng bận tâm.
Anh tưởng tượng thôi chứ chẳng đến nỗi như vậy đâu! Mà điều gì cho anh ý nghĩ đó?
Thói quen và đam mê của tôi là tìm hiểu con người bằng cách tương tác với họ, quan sát phản ứng của họ thông qua cảm xúc, ngôn ngữ của họ. Tôi không phải là một chuyên gia tâm lý, nhưng tôi rất thích khoa tâm lý học. Trước chuyến đi công tác ở Mỹ, có một anh phóng viên đến nói chuyện với tôi. Anh ta muốn biết tôi hiểu gì về miền Bắc và miền Nam khi viết những bài báo như tôi đã viết. Rồi anh ấy hỏi liệu tôi có lo rằng người ta đọc được sẽ tức giận hay không. Tôi nói rằng tại sao tôi phải lo? Nếu lo thì tôi đã không viết những bài báo đó.
Tôi đi và sống ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam và tôi đại diện cho tất cả những gì thuộc về văn hóa Việt Nam. Anh phóng viên nọ muốn tôi thay đổi, muốn tôi biết Hà Nội tuyệt vời thế nào và viết những điều tuyệt vời về Hà Nội. Vấn đề là tôi thích Việt Nam chứ không cảm tình riêng một thành phố nào. Tôi không hiểu tại sao có những người chỉ luôn muốn nghĩ rằng mình đúng.
Nguồn: DNSG
4.08.2010
HALLELUJAH
"Hallelujah"
Now I've heard there was a secret chord
That David played, and it pleased the Lord
But you don't really care for music, do you?
It goes like this
The fourth, the fifth
The minor fall, the major lift
The baffled king composing Hallelujah
Hallelujah
Hallelujah
Hallelujah
Hallelujah
Your faith was strong but you needed proof
You saw her bathing on the roof
Her beauty and the moonlight overthrew you
She tied you
To a kitchen chair
She broke your throne, and she cut your hair
And from your lips she drew the Hallelujah
Baby I have been here before
I know this room, I've walked this floor
I used to live alone before I knew you.
I've seen your flag on the marble arch
Love is not a victory march
It's a cold and it's a broken Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
There was a time you let me know
What's really going on below
But now you never show it to me, do you?
And remember when I moved in you
The holy dove was moving too
And every breath we drew was Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
You say I took the name in vain
I don't even know the name
But if I did, well really, what's it to you?
There's a blaze of light
In every word
It doesn't matter which you heard
The holy or the broken Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
I did my best, it wasn't much
I couldn't feel, so I tried to touch
I've told the truth, I didn't come to fool you
And even though
It all went wrong
I'll stand before the Lord of Song
With nothing on my tongue but Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah, Hallelujah
Hallelujah
2ND VERSION
i heard there was a secret chord
that david played and it pleased the lord
but you don't really care for music, do you
well it goes like this the fourth, the fifth
the minor fall and the major lift
the baffled king composing hallelujah
hallelujah...
well your faith was strong but you needed proof
you saw her bathing on the roof
her beauty and the moonlight overthrew you
she tied you to her kitchen chair
she broke your throne and she cut your hair
and from your lips she drew the hallelujah
hallelujah...
baby i've been here before
i've seen this room and i've walked this floor
i used to live alone before i knew you
i've seen your flag on the marble arch
but love is not a victory march
it's a cold and it's a broken hallelujah
hallelujah...
well there was a time when you let me know
what's really going on below
but now you never show that to me do you
but remember when i moved in you
and the holy dove was moving too
and every breath we drew was hallelujah
well, maybe there's a god above
but all i've ever learned from love
was how to shoot somebody who outdrew you
it's not a cry that you hear at night
it's not somebody who's seen the light
it's a cold and it's a broken hallelujah
7.24.2009
Selfless Acts of Vietnamese Citizens
Selfless Acts of Vietnamese Citizens
by DREW TAYLOR
Many Vietnamese more often than not, do not consider how their actions affect other people, even those in their immediate vicinity. Daily, smokers recklessly damage other people’s health, riders swerve in and out of traffic with complete disregard to other people’s safety, people throw garbage into the streets and into other people’s yards, and the list goes on and on. Yet, as much as everything is individual and seemingly selfish, there are certain concessions that people make in which they consider other people and act as a collective for the goodwill of those around them. And I can honestly say that these behaviours are sadly absent from the western world. To demonstrate my point, I will provide 3 easy examples.
Example Number 1 - During a rain shower, unless you have a raincoat, the chances are good that you will be running for cover to avoid getting soaked. Any shelter, make-shift or permanent, is sought out by those who are unfortunate to be caught outside in the rain. But, this is when the compassion of the Vietnamese people can be seen.
People will huddle under the rain awning of a shop, impeding entrance to the shop and inevitably creating discomfort for patrons. However, neither the owner nor the customers complain (no one comes out to yell at the people using the store front as rain shelter). Sadly, in Canada the shop owner would have asked everyone to leave unless they were going to buy something. They perceive the store front as an extension of their privacy, and wouldn’t hesitate to remove someone from their premises (even in a heavy rainfall).
Example Number 2 - On a seemingly calm day, vendors are out on the streets selling their wares. Various soup and noodle dishes, hand rolls, various fruits, and even hats and shoes. Suddenly a wave of commotion sweeps down the street in a panicked rush. The “quan ly thi truong” are coming! And how do people react to this common situation?
Suddenly you will see people opening their doors to their shops and houses to help people hide their possessions and products. The word of mouth has spread from people who are not even selling anything (and are in effect, not at risk of losing anything). People blocks away pass along the message that the quan ly thi truong are coming, confiscating tables, chairs, carts, etc. These people have nothing to gain from helping the vendors, and yet they offer assistance. Collectively they protect each other in a way that is not only admirable, but also selfless.
The situation is different in western countries. More often than not, people would be unwilling to pass along the word of approaching authorities. In fact in such situations many foreigners would actually welcome the authorities, seeing the vendors and such as a possible nuisance or some law-breaking entity.
Example Number 3 - Stepping into a restaurant or cafeteria in Canada or the US, you can witness many people waiting outside for a table to come available. But, if you peak around the corner to see if there really are no spaces available, it becomes clear that the restaurant is not full by Vietnamese standards. Looking around you can see that there are a number of tables with only 1, 2, or maybe 3 people sitting and yet the tables have the capacity to seat 5, 6, or more people. Why?
In Western countries, people never want to sit next to someone they don’t know. They have a fear that people are invading their privacy and that they have a magical area that is about 2 metres squared that surrounds them at all times. But, this leads to ridiculous expectations as well as a waste of time. Watching the people out front of the restaurant waiting for a place to sit fills me with the urge to slap them all in the face and say “Wake up!” In Viet Nam, any space that is available is used. People are not too sensitive or too cold to leave someone standing outside waiting for a seat. You can sit anywhere there is a space. And this practical approach has led to a simple understanding and acceptance that I admire. To me, it is a lot more sociable and warm to be able to sit next to a complete stranger without the awkwardness that foreigners feel in a similar situation.
As much as it seems that there is a lack of awareness of those around, Vietnamese do display actions that are selfless, compassionate, and practical. As the western world encroaches on Viet Nam during these times of transition and development, I stop and wonder if these actions will continue. There are certain behaviours and thinking that I wish the Vietnamese do not adopt from westerners. After all, this is still Viet Nam!
6.13.2009
FIVE KNACKS FOR LADY
Fine knacks for ladies, cheap, choice, brave and new,
god penniworths, but money cannot prove,
I keep a fair, but for the fair to view
a beggar may be liberal of love,
Though all my wares be trash, the heart is true.
Great gifts are guiles and look for gifts again,
My trifles come as treasures from my mind,
It is a precious jewel to be plain,
Sometimes in shell the Orient's pearls we find.
Of others take a sheaf, of me a grain
Within this pack pins, points, laces and gloves,
And divers toys fitting a country fair,
But in my heart, where duty serves and loves,
Turtles and twins, Court's brood, a heav'nly pair.
Happy the man that thinks of no removes.
Fine Knacks for Ladies
Fine knacks for ladies, cheap choice, brave and new
Good penniworthes, but money cannot woo;
I keep a fair, but for the fair to view;
A beggar may be liberal of love.
Tho' all my wares be trash, the heart is true,
the heart is true, the heart is true.
Great gifts are guiles and look for gifts again,
My trifles come, as treasures from my mind,
It is a precious jewel to be plain,
Sometimes in shell, the orient pearls we find.
All others take a sheaf, of me a grain,
of me a grain, of me a grain.
Within the pack, pins, points, laces, and gloves
And diverse toys, fitting a country fair
But in my heart, where duty serves and loves,
Turtles and twins, courts brood, a heavenly pair.
Happy the heart that thinks, of no removes,
of no removes, of no removes.
6.11.2009
my favorite songs
It Might As Well Be Spring
Lyrics by: Oscar Hammerstein II (O. Greeley Clendenning H. II)
Music by: Richard Rodgers
From the Film: State Fair 1945 (M)
I'm as restless as a willow in a windstorm, I'm as jumpy as puppet on a string
I'd say that I had spring fever, but I know it isn't spring
I am starry eyed and vaguely discontented, like a nightingale without a song to sing
O why should I have spring fever, when it isn't even spring
I keep wishing I were someone else, walking down a strange new street
And hearing words that I've never heard from a girl I've yet to meet
I'm as busy as spider spinning daydreams, spinning spinning daydreams
I'm as giddy as a baby on a swing
I haven't seen a crocus or a rosebud, or a robin on the wing
But I feel so gay in a melancholy way, that it might as well be spring
It might as well be spring.
OVER THE RAINBOW
Somewhere over the rainbow
Way up high
In the land that I heard of
Once, once in a lullaby
Somewhere over the rainbow
Skies are blue
And the dreams that you dare you dream
Really do come true
Someday I'll wish upon a star
And wake up where the clouds
Are far behind me
Where troubles melt like lemon drops
Away above the chimney tops that's where you'll find me
Someday I'll wish upon a star
And wake up where the clouds
Are far behind me
Where troubles melt like lemon drops
Away above the chimney tops that's where you'll find me
Somewhere over the rainbow
Skies are blue
And the dreams that you dare to dream
Really do come true
If happy little bluebirds fly
Above the rainbow
Why, oh why, can't I
MY FAVORITE THINGS
Raindrops on roses and whiskers on kittens
Bright copper kettles and warm woolen mittens
Brown paper packages tied up with strings
These are a few of my favorite things
Cream colored ponies and crisp apple streudels
Doorbells and sleigh bells and schnitzel with noodles
Wild geese that fly with the moon on their wings
These are a few of my favorite things
Girls in white dresses with blue satin sashes
Snowflakes that stay on my nose and eyelashes
Silver white winters that melt into springs
These are a few of my favorite things
When the dog bites
When the bee stings
When I'm feeling sad
I simply remember my favorite things
And then I don't feel so bad
You Must Love Me lyrics
Where do we go from here?
This isn't where we intended to be
We had it all, you believed in me
I believed in you
Certainties disappear
What do we do for our dream to survive?
How do we keep all our passions alive,
As we used to do?
[Bridge:]
Deep in my heart I'm concealing
Things that I'm longing to say
Scared to confess what I'm feeling
Frightened you'll slip away
[Chorus:]
You must love me
You must love me
Why are you at my side?
How can I be any use to you now?
Give me a chance and I'll let you see how
Nothing has changed
REFLECTION
Look at me
You may think you see
Who I really am
But you�ll never know me
Every day, is as if I play apart
Now I see
If I wear a mask
I can fool the world
But I can not fool
My heart
Who is that girl I see
Staring straight back at me?
When will my reflection show
Who I am inside?
I am now
In a world where I have to
Hide my heart
And what I believe in
But somehow
I will show the world
What�s inside my heart
And be loved for who I am
Who is that girl I see
Staring straight back at me?
Why is my reflection
Someone I don�t know?
Must I pretend that i�m
Someone else for all time?
When will my reflection show
Who I am inside?
There�s a heart that must
Be free to fly
That burns with a need
To know the reason why
Why must we all conceal
What we think
How we feel
Must there be a secret me
I�m forced to hide?
I won�t pretend that i�m
Someone else
For all time
When will my reflections show
Who I am inside?
When will my reflections show
Who I am inside?
SANTA BABY
Buh-bum.. buh-bum...
Santa baby, just slip a sable under the tree, for me
Been an awful good girl
Santa baby so hurry down the chimney tonight
Santa baby, a '54 convertible too, light blue,
I'll wait up for you dear
Santa baby, so hurry down the chimney tonight
Think of all the fun I've missed,
Think of all the fellows that I haven't kissed
Next year I could be just as good
If you check off my christmas list
Santa baby, I want a yacht and really thats not a lot
Been an angel all year
Santa baby, so hurry down the chimney tonight
Santa honey, one little thing I really need, the deed
To a platinum mine,
Santa baby, so hurry down the chimney tonight
Santa cutie, and fill my stocking with a duplex and cheques,
Sign your x on the line
Santa cutie, and hurry down the chimney tonight
Come and trim my chirstmas tree,
With some decorations bought at Tiffany's
I really do believe in you,
Let's see if you believe in me
Santa baby, forgot to mention one little thing, a ring,
I don't mean on the phone,
Santa baby, so hurry down the chimney tonight
Hurry down the chimney tonight
Hurry, tonight.
FINALLY FOUND SOMEONE
Something you should know about I Finally Found Someone Lyrics
Title: Bryan Adams - I Finally Found Someone lyrics
Artist: Bryan Adams Lyrics
Visitors: 62922 visitors have hited I Finally Found Someone Lyrics since May 27, 2008.
i
Send "I Finally Found Someone" Ringtone to Mobile
I finally found someone
That knocks me off my feet
I finally found the one
That makes me feel complete
It started over coffe
We strated out as friends
It's funny how from simple things
The best things begin
This time is different
And it's all because of you
It's better than it's ever been
'Cause we can talk it though
My favouite line was
"Can I call you sometime"
It's all you had to say
To take my breath away
This is it, oh I finally found someone
Someone to share my life
I finally found the one
To be with every night
'Cause whatever I do
It's just got to be you
My life has just begun
I finally found someone
Did I keep you waiting? I didn't mind
I apologise, baby that's fine
I would wait forever just to know you were mine
You know I love your hair
Are you sure it looks right?
I love what you wear
Isn't it too tight?
You're exceptional
I can't wait for the rest of my life
This is it, oh I finally found someone
Someone to share my life
I finally found the one
To be with every night
'Cause whatever I do
It's just got to be you
My life has just begun
I finally found someone
And whatever I do
It's just got to be you
My life has just begun
I finally found someone
5.18.2009
THIN LEI WIN & SÀI GÒN – CHIẾC CẦU NỐI NHỮNG NGUỒN VUI
Tóc đen nhánh, mắt mí lót, da bánh mật, chân mày lan lan tự nhiên, trông Thin như một thiếu nữ đến từ thảo nguyên nắng và gió, còn nguyên vẻ mộc mạc khỏe khoắn và vị ngòn ngọt thuần khiết của cỏ, của sương. Thin cuốn hút người đối diện bằng lối trò chuyện liến thoắng và giữ lửa bằng sự chừng mực trong một giọng Anh dễ nghe, quá êm và ấm để tạo ra một xung động gọn gàng bao quanh từ trường màu nâu của mình.
Quê hương. Người viết. Đôi bạn & duyên đến Việt Nam
Quê hương Thin, cố đô Rangoon, Myanmar dưới thời đế quốc Anh từng là trung tâm xuất khẩu nông lâm, sản vật quí hiếm, với cơ sở hạ tầng ngang với Luân Đôn. Sau trận động đất năm 1930 và chiến tranh thế giới thứ hai, Rangoon bị thiệt hại nặng nề và liên tiếp trải qua nhiều biến động chính trị cho đến năm 1989, Rangoon chính thức đổi thành Yangon. Từng được chọn làm nơi tổ chức hội nghị thượng đỉnh Phật giáo Thế giới năm 2004, song cho đến nay, quê hương Yangon vẫn là một nơi Thin hướng về với nhiều ưu tư, khắc khoải.
Thin kể lại rằng cô may mắn được cha mẹ là những người có tầm nhìn luôn khuyến khích cô học tiếng Anh và hướng cô ra thế giới. Những năm đầu đại học, trường đại học Yangon gặp nhiều biến động khiến sinh viên phải nghỉ, Thin đến Singapore và tiếp tục hoàn thành cử nhân kinh tế. Tốt nghiệp đại học, Thin phụ trách về truyền thông và marketing cho một hãng tư vấn luật. Nhưng tính thích giao tiếp và không chịu ngồi yên một chỗ đã mang Thin rẽ lối đến với nghiệp viết lách và hoàn thành cao học Báo chí một năm tại Anh.
Khi vị hôn phu nhận lời mời công tác tại Việt Nam, Thin cùng anh đến Sài Gòn trong chuyến đi ba ngày để có quyết định về nơi an cư lạc nghiệp. Đôi bạn trẻ đến thành phố đúng dịp lễ hội Oktoberfest cách đây hai năm và được mời tham gia đêm hội tại Windsor. Chính nhờ đêm tiệc vui ấy, đôi bạn trẻ quyết định nhận công tác tại Việt Nam vì một lẽ rằng, chính những người bạn gặp, chứ không phải sự phát triển về kỹ thuật – là yếu tố giữ bạn ở lại. Thin hiện đang làm cho tạp chí Asia Life in Vietnam, song không lúc nào cô tự nhận mình là nhà báo. Thin thích được gọi là người viết.
Gần hai năm ở Việt Nam, Thin cùng chồng đã đi thăm thú nhiều nơi dọc dải đất cong cong Việt Nam. Từ Hà Nội, Hạ Long, Hải Phòng, vùng núi Tây Bắc, dải đất miền Trung, Cao nguyên và đồng bằng Nam bộ, ở đâu, đôi bạn trẻ cũng thể hiện là những người quan sát tốt qua những bức ảnh chụp phong cảnh và con người có chiều sâu, thể hiện một sự chiêm ngưỡng lắng đọng. Hàng trăm bức ảnh cảnh vật và con người Việt Nam được đưa lên trang web cá nhân để chia sẻ với bạn bè gần xa thực sự là một bộ sưu tập có ý nghĩa về tinh thần và thời gian không chỉ với riêng tình yêu của đôi bạn trẻ.
Với Sài Gòn. Và chiếc cầu nối những nguồn vui
Ở một nước đang phát triển, người ta có cơ hội để nhìn thấy nhiều hơn. Khi tòa tháp Truyền hình thành phố khánh thành với ánh đèn màu thay đổi vào mỗi đêm, khi Saigon Square được dỡ xuống để Kumho mọc lên, những cao ốc văn phòng và nhà ở trong nội thành vươn mới, có biết bao niềm vui, nỗi buồn qua đi trong lòng những con người đang chia sẻ cái không gian đô thị nhỏ bé nhiều ẩn ức và hớn hở này. Công việc của Thin, người viết cho tạp chí văn hóa- du lịch- giải trí, là giới thiệu một phần đời sống Sài Gòn cho độc giả nước ngoài đến du lịch hay sống và làm việc tại Việt Nam. Thin viết về Sài Gòn cho độc giả phương Tây bằng cảm nhận và trải nghiệm của một người nước ngoài, duy có một chút khác vì Thin người châu Á. Quê hương Thin, Myanmar cũng là một quốc gia đang trở mình, song nhiều bạn trẻ xa xứ như Thin không tìm thấy cơ hội làm chứng nhân cho sự đổi mới.
Từ ngày rời Myanmar, Sài Gòn là nơi thứ hai Thin dành nhiều thời gian sống, chỉ sau Singapore. Thin luôn nói, được ở trong lòng một thành phố đang phát triển là khoảng thời gian đáng sống và đáng nhớ. Là một người nước ngoài, hơn ai hết Thin hiểu cảm giác của người xa nhà đi tìm niềm vui. Là một cư dân thành thị, hơn ai hết Thin hiểu giá trị của thời điểm một đô thị lột xác, khi “mới” và “cũ” va chạm, tranh chấp và nhường nhịn. Là một người viết, hơn ai hết Thin hiểu cần mang gì đến cho người đọc. Và Sài Gòn mang lại cho Thin cơ hội để làm chiếc cầu nối người với người, nối người với những nguồn vui. Ở một Singapore sạch sẽ, an toàn, bộ mặt người dễ trở nên nghiêm túc, cứng nhắc. Ở một Sài Gòn còn tất bật trong sự nhàn rỗi, người ta còn giữ được mình dễ chịu và đầy biểu cảm.
Ngày càng có nhiều người nước ngoài tìm đến sống và làm việc tại các quốc gia đang phát triển, phải chăng họ muốn nhìn thấy nhiều diễn biến khác lạ hay một cách vô thức, họ đi tìm một thứ gì đó như là cầu nối giữa người với người? Theo kinh nghiệm của Thin, người nước ngoài sống và làm việc tại Tp. Hồ Chí Minh hiếm khi rơi ra ngoài quĩ đạo khép kín nối liền ba điểm sinh hoạt vui chơi giải trí là Quận 1- An Phú- Phú Mỹ Hưng. Từ đó họ đi đi về về an ổn và bảo thủ trong cái vòng thân thuộc ấy. Thế nên văn hóa tiếp cận được với người nước ngoài vô hình chung cũng bị giới hạn tại đó. Gout của những người thích tìm về không khí thành thị của Sài Gòn xưa thường là những nơi nhỏ nhắn, ấm cúng hơn là nơi qui mô, hào nhoáng.
Sài Gòn đặc biệt cũng là nhờ tất cả những vẻ khác lạ, đẹp- xấu, hay- dở, sáng- mờ lẫn lộn, phơi bày không phô phang, mà cũng không giấu giếm. Sài Gòn hấp dẫn du khách bởi cái vẻ tạp nhạp tự nhiên nhưng sao vô cùng duyên dáng của mình. Và công việc của Thin, là kể những câu chuyện Sài Gòn phố, Sài Gòn quán, phóng khoáng, đong đưa, một Sài Gòn có khi cũ và buồn nhưng chẳng mấy khi dìu khách xa xứ vào nỗi sầu trầm tư mặc tưởng.Và Thin, một người hiểu và yêu Sài Gòn không kém gì người Sài Gòn, cứ mãi mong thành phố giữ được mãi nét duyên của mình. Bản thân Thin cũng tìm những quán quen, để giữa Sài Gòn, được tựa mình vào một chốn thân quen thật không còn gì bằng. Au Parc café Hàn Thuyên, nhà hàng Le toit gourmond, hay Qing Bar Đông Du, quán nhỏ, rượu ngon là những nơi Thin yêu thích.
Tháng hai này, Thin và vị hôn phu sẽ tổ chức đám cưới tại quê nhà Yangon, Myanmar. Đôi bạn trẻ đã lên kế hoạch đặc biệt để mời và hướng dẫn bạn bè từ khắp nơi thực hiện chuyến đi ăn cưới xa xôi hiếm thấy. Biết rằng ở Myanmar, cánh cổng vào còn khá xa lạ với bạn bè thế giới, nơi các dịch vụ truyền thông, y tế, du lịch còn ở mức khiêm tốn, Thin và Chris, chồng sắp cưới của cô đã thiết kế những tấm thiệp cưới đặc biệt có hình như một tấm bưu thiếp, vừa là thiệp mời, vừa là một cẩm nang hướng dẫn làm sao đến Myanmar, với đầy đủ thông tin từ cách xin thị thực đến đặt vé máy bay, khách sạn, dịch vụ viễn thông, y tế…
Tết dương lịch năm ngoái, đôi bạn đi tour đạp xe từ Đà Lạt đến Mũi Né. Năm nay, Thin và Chris đã lên đường thăm Côn Đảo lịch sử. Chuyện tình của Thin và Chris khởi đầu trên một chuyến thang máy ở Singapore, được nuôi dưỡng trên mọi nẻo đường Việt Nam, và sắp sửa thành tựu ở quê nhà Yangon. Cầu chúc đôi bạn trẻ mãi mãi hạnh phúc, cũng như Sài Gòn, mãi giữ được nét duyên của mình!
Quế Anh
PHIM VỀ MARADONA VÀ CÚ GHI BÀN LỊCH SỬ “THE HAND OF GOD”
Cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá thế giới, Diego Armando Maradona nổi tiếng và tai tiếng với những thành công xuất chúng và hành vi thái quá cả trong và ngoài sân cỏ. Cuộc đời anh là đề tài cho không chỉ một mà là hai dự án phim: bộ phim lồng tiếng Ý-Tây Ban Nha: Maradona, the Hand of God và phim tài liệu với cái tên đơn giản Maradona. Trong khi bộ phim tài liệu có thể được vinh danh tại liên hoan phim Cannes lần tới, thì phim Maradona, the Hand of God, đạo diễn Marco Risi, diễn viên chính Marco Leonardi, vừa ra mắt tại Ý cuối tháng 3 năm nay dự kiến sẽ vấp phải nhiều khó khăn khi chinh phục “thị trường chung” điện ảnh châu Âu.
Ít có môn thể thao nào khơi dậy cảm hứng xuyên lục địa và gây nên cơn sốt cho cả thế giới như bóng đá. Maradona, the Hand of God, lấy tựa từ bàn thắng nổi tiếng trong trận Argentina gặp Anh, World Cup 1986 tại sân Estadio Azteca, Mexico City. Bàn thắng được hiện bằng đầu và “bàn tay của Chúa”, theo cách Maradona miêu tả, thừa sức kéo người hâm mộ ở Ý xếp hàng mua vé. Ở Ý, cái tên Maradona được nhắc đến với lòng ngưỡng mộ và biết ơn vì những chiến thắng anh mang về cho Napoli khi chơi cho đội bóng tại Naples từ 1984 đến hết 1992 trước khi phải rời CLB vì một vụ bê bối liên quan cocaine. Cũng được biết thêm rằng từ khi nghỉ hưu, chứng nghiện cocaine vẫn tiếp tục và Maradona phải trải qua cơn đau tim sau một lần dùng cocaine quá liều năm 2004. Anh cũng phải chiến đấu với chứng béo phì và những lời cáo buộc về việc nuôi con ngoài giá thú.
Maradona, the Hand of God được quay tại Argentina và Ý, với ba diễn viên chính trong vai Maradona: Gonzalo Alarcon trong vai Diego còn nhỏ, Abel Ayala ở thời niên thiếu và Marco Leonardi, thời trưởng thành. Trong đó, sự xuất hiện của Leonardi được xem sự trở lại thành công sau hai vai diễn chính khẳng định thành công trong cuối thập niên 80, đầu 90: Nuovo cinema paradiso from 1988 and Como agua para chocolate (Like Water for Chocolate) from 1992. Vai vợ Maradona và người tình Claudia Villafađe do Eliana González và Julieta Díaz đóng.
The Hand of God ghi nhận lại những thăng trầm trong cuộc đời người cầu thủ huyền thoại đã đánh bại đội tuyển Anh trong vòng tứ kết World Cup 1986, sau đó giúp Napoli thắng giải vô địch Ý năm 1987, 1990. Mặc dù những bê bối liên quan đến ma túy và vi phạm pháp luật liên tiếp phần nào làm lu mờ thành công trên sân cỏ, Maradona vẫn được tôn vinh là huyền thoại lịch sử. Bộ phim dựng lại hầu hết các khoảnh khắc huy hoàng nhất của Maradona trong sự nghiệp. Trong trận gặp Anh, Maradona trả đũa cách chơi quí tộc của các nghệ sĩ bóng đá Anh. Sự thiếu tính đồng đội và tính “diễn” trong phong cách chơi bóng của Maradona được cả thế giới vỗ tay, mặc dù chấp nhận điều đó ngay lập tức quả không dễ dàng gì. Ngay cả những sai lầm của Maradona đều mang một chút thần thánh, bởi vì không có một cầu thủ nào mà sức ảnh hưởng cá nhân trong một chiến thắng ở World Cup lại đậm đà như thế. Ngay cả Pele, Beckenbauer, Zidane… cũng không thể sở hữu khả năng biến đồng đội của mình thành những trái tim sư tử quả cảm. Lối chơi cân bằng, sức mạnh, sự dũng cảm, những đường bóng sáng tạo đầy tinh nghịch của Maradona khiến không chỉ người hâm mộ bóng đá mà cả khán giả truyền hình đều kinh ngạc. Nhưng trên tất thảy, người cầu thủ huyền thoại này chơi bóng như đặt cả cuộc đời mình vào đó.
Trận tứ kết Argentina thắng 2-1, với đa số người Anh, sự kiện này là sẽ luôn được nhắc đến như mối hận cần phục thù mỗi khi chạm trán. Còn với người Argentina, đây là sự phục hận cho trận đấu được cho là thiếu công bằng trong World Cup 1966.
Bóng đá Anh và Argentina liên tục trải qua các cuộc đụng độ trong lịch sử giao đấu, mở đầu là tranh cãi khi đội trưởng người Argentina Antonio Ubaldo Rattin bị đuổi ra ngoài trong trận thi đấu World Cup 1966, Argentina thua cuộc, trong khi Anh vô địch. Năm 1986, trong trận tứ kết World Cup, căng thẳng lên đến đỉnh điểm một phần vì cuộc chiến Falklands diễn ra trước đó bốn năm. Lần này, với cú làm bàn bằng “Bàn tay của Chúa”, Argentina chiến thắng, hả hê như Anh cách đây 20 năm về trước.
Trong trận tứ kết định mệnh đưa Argentina lên đỉnh vinh quang năm ấy, phút thứ sáu khi bước vào hiệp hai, Maradona đột ngột tạt ngang từ sườn bên phải, lướt qua một góc hẹp trong khu vực của đồng đội Jorge Valdano. Maradona vượt lên, tuy chậm hơn Valdano một chút và chạm mặt Steve Hodge, trung vệ cánh trái của tuyển Anh, lúc này đã di chuyển về dưới để phòng vệ. Hodge cố gắng chặn bóng nhưng không thành. Bóng trượt khỏi chân và lăn vào vùng cấm địa, hướng về phía Maradona lúc này vẫn đang tiếp tục chạy. Thủ môn đội Anh Peter Shilton đã nhào ra vừa kịp lúc để đấm bóng. Với chiều cao hơn một mét tám, rõ ràng Shilton có thể vượt lên hẳn Maradona ( chỉ cao một mét sáu lăm) để nhào về phía bóng. Tuy nhiên, Maradona đã chạm bóng trước bằng phía ngoài nắm tay trái. Banh đi thẳng vào khung thành, trọng tài người Tunisi Ali Bin Nasser không phát hiện hành vi phạm luật và đã công nhận bàn thắng.
Rất nhiều người, kể cả Shilton, lúc đầu cũng không nhận ra rằng đó là cú banh bằng tay. Nhiều bình luận viên các đài nghĩ rằng sự phản đối của hậu vệ đội Anh là vì việt vị mà chỉ khi xem lại camera góc mới cho thấy sự phạm luật.
Trong tự truyện xuất bản năm 2000, Maradona đã tự nhận rằng: “Bây giờ tôi cảm thấy có thể nói điều mà từ lâu tôi đã không thể. Thời điểm mà tôi gọi đó là “Bàn tay của Chúa”, làm gì có bàn tay nào của Chúa! Đó là bàn tay của Diego! Cảm giác lúc ấy giống như móc túi của người Anh vậy”. Tai nạn khi các cầu thủ lợi dụng sơ suất của trọng tài để được công nhận bàn thắng là chuyện thường tình, song “Bàn tay của Chúa” để lại tiếng vang quá lớn trước hết vì tính quan trọng của trận đấu, sau là vì sự căng thẳng ngấm ngầm giữa Argentina và Anh từ lâu đã ôm ấp ý đồ phục hận.
Đạo diễn bộ phim, Marco Risi tuyên bố dù gì bàn thắng của Maradona là một nghệ thuật, và là một cột mốc đáng ghi nhớ trong sự nghiệp của cầu thủ huyền thoại. Phim mô tả cuộc đời Maradona từ thuở thiếu thời khổ cực lớn lên trong khu ổ chuột ở Buenos Aires cho đến giai đoạn anh nghiện ma túy. Tuy nhiên không đề cập đến những góc tối trong cuộc đời Maradona như thời kỳ suy sụp trong thuốc, căn bệnh béo phì, và các bê bối pháp lý, cả việc anh có dính líu tới mafia ở Naples.
Phim được chào đón nồng nhiệt ở Ý, vốn xem Maradona là thần tượng khi anh giúp mang về cho Napoli liên tục hai cúp Scudettos và cúp UEFA. Nhưng dự báo không mấy tốt lành khi phim sắp trình chiếu tại Anh và các nước châu Âu khác. Biết đâu, người Anh cũng vì tò mò mà tạm gác lại ấm ức mang tính lịch sử với cú ghi bàn bằng “Bàn tay của Maradona” và tạm chấp nhận vô địch World Cup 1986 của Ý biết đâu cũng là ý Chúa.
Q.A
PACHARAN – ĐÔI MẮT TÂY BAN NHA CỦA ANDRES ARIAS
Đối diện một khách sạn Anh, cạnh một hiệu bánh mì Pháp, song song với một nhà hàng Tàu và xoay lưng vào quán bia Đức, Pacharan- nhà hàng Tây Ban Nha đầu tiên trong thành phố đã khai trương sau một thời gian dài đồn thổi và mong đợi.
Nếu không sành món Tây, chắc hẳn ít ai biết Pacharan là tên một loại rượu truyền thống thường được dùng sau bữa ăn để kích thích tiêu hóa, có nguồn gốc từ Navarra, vùng tự trị Basque, lãnh thổ Tây Ban Nha. Được làm từ loại mận gai được trồng trong vùng khí hậu Địa Trung Hải, ngâm với rượu hồi, thêm ít hương liệu từ hạt café và vanilla, Pacharan có màu nâu đỏ, vị ấm dịu mà nồng nàn lơ lửng trên đầu lưỡi. Tọa lạc ngay góc đường Công trường Lam Sơn-Hai Bà Trưng, ngôi nhà bốn tầng màu kem dường như quá sạch sẽ để người ngoài nhận biết đó là một nhà hàng nếu không nhờ dòng chữ Tapas and Bodega, nhắc nhở tên món ăn chơi khá phổ biến của Tây Ban Nha- Tapas. Và nếu chỉ nhìn bề ngoài, thực khách cũng khó ngờ chàng thanh niên rất trẻ và có vẻ lãng tử này là giám đốc điều hành cơ ngơi Pacharan.
Cha người Tây Ban Nha, mẹ người Brazil, Andres Arias sinh tại Rio De Jan Nero, Brazil, lớn lên ở Barcelona, Tây Ban Nha, từng làm việc với những nhà hàng trong danh sách nổi tiếng nhất thế giới của Robert De Niro, Madonna, phục vụ Vua và hoàng hậu Tây Ban Nha… Bước vào lĩnh vực nhà hàng từ năm 14 tuổi khi cậu bé Andres cũng cần ít tiền tiêu vặt như bao đứa trẻ khác, nghề nhà hàng và ẩm thực khi ấy đối với một cậu bé sao quá dễ dàng như hẳn đã nhập tâm tự khi nào. Năm 18 tuổi, Andres sang Anh học đại học ngành quản lí nhà hàng khách sạn và bắt đầu sự nghiệp một cách chuyên nghiệp tại Anh. Những nhà hàng Andres từng làm việc đều có tên trong danh sách những nhà hàng tốt nhất thế giới, môi trường hoàn hảo, cung cấp những dịch vụ hoàn hảo. Ý tưởng về hệ thống Pacharan xuyên suốt châu Á nằm trong kế hoạch phát triển Pacharan như một thương hiệu nhà hàng Tây Ban Nha đẳng cấp quốc tế, chia sẻ khẩu vị của nền văn hóa ẩm thực vùng Địa Trung Hải vốn được ưa chuộng bởi giới thượng lưu khắp nơi trên thế giới.
Những nhà quản lý cấp dưới ở Pacharan nói họ đã làm việc với nhiều lãnh đạo người nước ngoài trong ngành nhà hàng khách sạn nhưng chưa ở đâu có ấn tượng như Andres ở Pacharan. Ở Andres toát lên một sự nhã nhặn khe khắt, đòi hỏi một phong cách phục vụ tốt nhất, nhanh, dứt khoát và nghiêm ngặt. Bộ đồng phục màu đen của phục vụ nhà hàng không làm tối bớt đi không gian tràn ngập ánh sáng ở Pacharan mà ngược lại, làm đầm thêm những màu nóng rừng rực như đang bị đóng trong cái khung của những mái vòm trắng thanh lịch. Pacharan chào bán thực đơn Tây Ban Nha cho thực khách muốn thưởng thức chất Tây Ban Nha đích thực trong từng ly rượu, từng hạt gạo trong món cơm Paella, từng loại dầu olive dành riêng cho mỗi món… Tất cả thức uống và nguyên vật liệu đều được nhập từ bản quốc, chế biến theo phong cách truyền thống, và phục vụ với đẳng cấp quốc tế. Ở Pacharan, giám đốc điều hành cũng có thể là người phục vụ - đó là điểm khác biệt trong cách quản lí ngành nhà hàng khách sạn của chàng thanh niên không biết giấu sự nồng nàn đàng sau đôi mắt xanh vốn dĩ rất nhạt của mình.
Là vùng đất sản sinh những nhà văn, họa sĩ, vũ công tài ba… nhưng nhắc đến một-không-khí Tây Ban Nha trong Pacharan, đó không thể chỉ là Cervantes, Picasso hay Carlos Montoya… mà trước phải là một nhà hàng với phong cách thưởng thức ẩm thực Tây Ban Nha đúng nghĩa. Trong một không gian nghệ thuật Tây Ban Nha đương đại, Pacharan vẫn trung thành với màu sắc và đường nét truyền thống, nhưng không bị gò bó bởi nghệ thuật của những danh họa mà cả thế giới ngưỡng mộ.
Andres có cái nhìn rất tự tin về sự am hiểu và tiên phong trong tư duy nghệ thuật của mình. Bạn của Andres, chuyên gia thiết kế quán bar, nhà hàng của châu Á, Jerry Swaffield được mời để thực hiện khâu thiết kế cho Pacharan. Vòm cong, sàn gỗ, những ô cửa kính màu, đỏ và vàng… là lặp lại của đường nét Tây Ban Nha truyền thống. Phần hồn của nội thất có thể nói là những bức tranh Pacharan. Ấn tượng của thực khách bị dồn vào những bức tranh vuông có, dài có, nhỏ có, to có, và một điều lạ lùng là tất cả những bức tranh đều vẽ về cùng một thứ: những chai rượu Pacharan đủ hình dáng, đủ kích cỡ đan chen với nhau. Nhưng khi bạn nhìn chúng, mỗi bức tranh dường như là một thực thể riêng, chúng có những đôi mắt và ánh nhìn riêng, nằm ở những vị trí khác nhau, trò chuyện theo một lối riêng. Một người bạn làm về nghệ thuật cho rằng Andres là người rất can đảm khi dám thể nghiệm quan niệm thẩm mỹ của anh trong nghệ thuật bằng những bức tranh nói là thường cũng đúng mà quí cũng đúng. Đó là thứ nghệ thuật cân bằng, khi mà mỗi xúc cảm đặt vào nó nối dài phần bên kia của cảm xúc chứ không phải tự thân tác phẩm nghệ thuật làm nên sự cảm nhận. Cách Andres làm với nghệ thuật có thể ví như cách người biết võ quay lưng trong một trận đấu. Ngoan cố, thách thức và chờ đợi.
Với quan niệm chia sẻ cái mình có chứ không sao chép, từng chi tiết của Pacharan đều ghi nhận dấu ấn của sự tìm tòi, sáng tạo. Như những chụp đèn gắn trên tường là khuôn mặt người đàn ông với nụ cười trường tiếu phổ biến trong các vở kịch xưa ở Tây Ban Nha. Hình ảnh con bò trong truyền thống đấu bò tót được dùng làm biểu tượng chào đón khi thực khách khi ngồi vào bàn, khi vào trang web của Pacharan lại là một con bò… rất hiền. Pacharan tại Sài Gòn là trung tâm thứ hai trong hệ thống Pacharan tại Đông Nam Á. Pacharan đầu tiên tọa lạc ở vị trí rất đẹp nhìn ra con sông Mekong tại Phnom Penh, Campuchia, vốn cũng rất nổi tiếng với du khách quốc tế. Theo Andres, ở châu Á hiện nay ngoài Trung Quốc, Việt Nam là nơi du khách đang muốn đến tìm hiểu và khám phá. Với cộng đồng người nước ngoài hiện sống và làm việc tại Việt Nam khá phong phú, khách du lich quốc tế và người Việt ở nước ngoài về nước làm ăn khá đông, việc kinh doanh nhà hàng khách sạn, lãnh vực vốn rất cần môi trường quốc tế, đang gặp nhiều thuận lợi và sẽ còn phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai.
Quế Anh
XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU: TỪ NHẬN DẠNG ĐẾN NHÂN DẠNG
Một trong những yếu tố làm nên nhận dạng thương hiệu là tính cách thương hiệu. Nhưng chọn lựa và phát triển tính cách như thế nào, một thương hiệu đa tính cách có thể đồng cảm với nhiều đối tượng khách hàng, hay mỗi loại khách hàng chỉ có thể tìm thấy mình trong một thương hiệu? Làm thế nào để duy trì một bức tranh nhận dạng thương hiệu tập trung trong khi vẫn phù hợp với nhiều nhóm đối tượng mà thương hiệu đang tương tác? Điều đó chỉ có thể được giải quyết khi thương hiệu được nhận thức như một cá nhân.
Dùng nhân vật nổi tiếng làm đại diện hình ảnh cho một thương hiệu là cách làm khá hiệu quả và phổ biến để xây dựng tính cách thương hiệu và quảng cáo sản phẩm bởi khả năng tạo ấn tượng gần gũi trong nhận thức người tiêu dùng là: cá tính thương hiệu cũng chính là cá tính và phong cách đã làm nên tên tuổi của người nổi tiếng. Tuy nhiên, dùng các “sao” có thể nguy hiểm bởi các khả năng như:
Có một sự kết nối lệch lạc giữa “sao” và sản phẩm; “Sao” đại diện cho quá nhiều sản phẩm, làm giảm giá trị ảnh hưởng; Người tiêu dùng có thể hoài nghi động cơ làm đại diện cho một thương hiệu của “sao”; Và cuối cùng, vì các “sao” cũng là người nên có khi lầm lỗi. Mọi sự cáo buộc về hành vi của người nổi tiếng, dù được sáng tỏ hay chưa, đều sẽ gây rắc rối cho các thương hiệu liên quan đến họ.
Cuộc se duyên giữa thương hiệu với các sứ giả “ngôi sao” có thành công hay không là tùy thuộc vào mục đích và chiến lược của từng thương hiệu: nhanh chóng tranh thủ thị hiếu, giành giật thị phần, hay trao cho sứ giả sứ mệnh đánh thức những tín đồ ngủ quên... Có thể thấy nhiều điều từ kết quả chiến dịch “Tôi là tôi” (I am What I am) của Reebok và “Máy tính cũng là chuyện cá nhân” (The computer is personal again) của Hewlett-Packard chỉ sau một thời gian tung ra thị trường.
50 Cent - ngôi sao nhạc rap đang ở đỉnh cao sự nghiệp trị giá hàng triệu đô và trở thành cái máy in tiền cho các hãng lớn - là nhân vật được Reebok chọn cho chiến dịch toàn cầu quảng bá loại giày đi bộ hiệu G-Unit. Video game mang tên Bulletproof của 50 Cent và hợp đồng với hãng đồ thể thao Reebok đã gây một chấn động lớn khi mẫu quảng cáo của hãng này bị Hiệp hội tiêu chuẩn quảng cáo Hoa Kỳ cấm phát sóng. Reebok từ chối nói về cuộc hợp tác với 50 Cent nhưng thừa nhận hãng này cũng phải nhìn lại rủi ro về thương mại bởi họ cũng không thể tính hết được những tác dụng ngược. Hình ảnh “Thằng bé hư” (Bad boy) mà hãng này đang khai thác là chuyện xưa trước khi tên tuổi 50 Cent được chú ý, câu hỏi là tại sao Reebok lại chọn nhân vật này cho chiến dịch quảng cáo rầm rộ toàn cầu?
Không riêng Reebok, văn hoá hip-hop đầy rẫy những thương hiệu nổi tiếng từ Mercedes đến Louis Vuitton hay Courvoisier. Đối với các công ty khai thác các ngôi sao hip-hop, cơ hội tăng doanh số đột ngột hay hứng chịu một vụ bê bối hình ảnh được đánh giá là ngang nhau. Ai cũng ngạc nhiên khi hãng sản xuất champagne lớn như Cristal cũng trở thành sự lựa chọn của các tay rapper sau khi 50 Cent đổ những chai Cristal đắt tiền lên lưng các vũ công trong một video clip của anh. Frederic Rouzaud, giám đốc điều hành Cristal Champagne hơi giật mình khi nghe tên sản phẩm mình được rap lại trong các bản hip-hop. Với thái độ hàn lâm của một nhà ngoại giao, ông tỏ vẻ nhát gừng khi đụng đến văn hóa hip-hop: “Tôi nghĩ tốt hơn là họ nên uống champagne thay vì đổ nó đi.”
Nhiều thương hiệu đang cố thay đổi để trở thành hình ảnh thú vị trong mắt giới trẻ và điều này gây không ít tác dụng phụ vì thái độ tiếp cận không đúng cách. Như McDonald năm ngoái nỗ lực sâu sát với giới trẻ bằng cách xem hip-hop là con đường dẫn đến... bao tử của các thực khách tuổi teen. McDonald đưa ra chiêu treo giải cho các nghệ sĩ sáng tác và hát rap về những chiếc bánh Big Mac với giải thưởng là tiền mặt cho bất cứ bài hát nào có về Big Mac được phát sóng. Dĩ nhiên ý tưởng chẳng bao giờ thành hiện thực vì chẳng có ban nhạc nào thích bị “mua” kiểu đó. Sai lầm của McDonald là ở thái độ quá thẳng thừng của họ đối với mục đích kinh doanh và quan trọng là - với hip-hop. Hip-hop hiện nay là thứ văn hóa có khả năng tạo trường ảnh hưởng có tính toàn cầu với thế hệ trẻ. Có một sự tương quan giữa hip-hop với tất cả thương hiệu vì vậy cuộc chạy đua để trở thành những thương hiệu quyến rũ với giới trẻ là gay go như nhau. Tiêu chí của sự hấp dẫn thay đổi xoành xoạch, cho dù bạn có chạy theo thế nào thì vẫn luôn đi sau nó một bước. “Nối mạng” với hip-hop luôn có thể là con dao hai lưỡi.
Giải thích với Hiệp hội tiêu chuẩn quảng cáo Hoa Kỳ, Reebok nói mục đích của chiến dịch “Tôi là tôi” là để cổ vũ tinh thần thể hiện bản thân, sự độc đáo cá nhân. Hiệp hội cho rằng Reebok chịu trách nhiệm cho sự lựa chọn người nổi tiếng, mẩu quảng cáo được xem là dung thứ cho tính bạo lực và ngầm chỉ trích cuộc sống của ngôi sao có thể là cảm hứng cho những hành vi sai trái. 50 Cent là hình ảnh vận động cho một chiến dịch ngắn hạn, trong khi sản phẩm cải tiến liên tục mà chiến dịch gắn với một ngôi sao chỉ chạy có thời hạn nhất định. Về kinh nghiệm sử dụng hình ảnh người nổi tiếng có lẽ Pepsi dẫn đầu nhờ chiến lược dùng một loạt các ngôi sao trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp của họ.
Ảnh hưởng về mặt hình ảnh cộng đồng quanh rắc rối của vụ cấm quảng cáo sẽ ảnh hưởng Reebok như thế nào còn tùy thuộc vào phân khúc khách hàng mà quảng cáo nhắm tới. Những nhà quan sát cho rằng, ảnh hưởng tiêu cực trong mắt người tiêu dùng vốn chuộng sản phẩm Reebok ở chất lượng là điều không tránh khỏi. Thêm nữa, trong khi Reebok đưa ra giải thưởng về hoạt động nhân quyền chống bạo lực từ những năm 1988, thì giờ đây hình ảnh 50 Cent với trò chơi bắn súng mang hình ảnh quá bạo lực. Oái ăm hơn là hình ảnh bạo lực này lại đi kèm với một chương trình sale đầy thiện chí: mỗi đôi giày hiệu G-Unit bán được sẽ trích 50 xu cho quĩ từ thiện xã hội. Quả là một bài học đau cho Reebok (!).
Còn bài học thực tế trong chiến dịch “Máy tính cũng là chuyện cá nhân” của HP rất đơn giản: dùng những người sáng tạo để phát biểu một cách sáng tạo những điều rất thực tế. Lấy cảm hứng từ ý tưởng “những bàn tay nói chuyện” (talking hands), loạt quảng cáo mới của HP mời những tên tuổi nổi tiếng trong các lĩnh vực như nhà văn Paul Coelho, nhà tạo mẫu thời trang Vera Wang, ông vua nhạc rap Jay-Z, vô địch trượt tuyết Shaun White, đạo diễn Michel Gondry... Những nhân vật nổi tiếng lâu nay được biết dưới một cái tên và được xem như biểu tượng giờ đây xuất hiện, dùng bàn tay để kể những câu chuyện về cuộc sống và công việc thường ngày họ làm với chiếc máy tính cá nhân HP của mỗi người. Ít người biết cả ba tập phim hoạt hình 3D Shrek1, 2, 3 (riêng phần 3 là 4D) đều có phần kỹ thuật được thực hiện trên chiếc máy HP hỗ trợ công nghệ của AMD. Kết quả của chiến dịch “Máy tính cũng là chuyện cá nhân” (The computer is personal again) trong quí Một năm 2007 cho thấy doanh số máy tính cá nhân tăng 17% đạt 8,7 tỉ đô la Mỹ, trong đó riêng máy xách tay tăng 40%. Các chuyên gia marketing ở trung tâm công nghệ Silicon Valley đánh giá cao nỗ lực và thành công của HP khi xây dựng hình ảnh một HP hiện đại, gần gũi hơn với người tiêu dùng, mặc dù nhà sản xuất máy in và máy chủ hàng đầu thế giới này chỉ mới tấn công vào thị trường máy tính cá nhân để cạnh tranh cùng Dell, Lenovo, Acer...
Quế Anh
LUCIANO PAVAROTTI - GIỌNG TENOR NGỌT NGÀO CỦA THẾ KÝ XX
Nhận được tin nghệ sĩ opera Pavarotti qua đời vào lúc 5 giờ chiều ngày 6 tháng Chín, người yêu nghệ thuật opera trên khắp thế giới đã nghiêng đầu tiễn biệt “Lucy béo”, tên thân mật của giọng tenor vàng Luciano Pavarotti (12/10/1935-6/9/2007). “Tôi nghĩ tôi chỉ dừng một năm trong giai đoạn từ một đứa trẻ trở thành một người đàn ông và bị đổi giọng. Từ alto, tôi trở thành tenor và đó là lần duy nhất tôi nhớ mình phải ngưng hát. Còn không thì, tôi sẽ luôn hát suốt đời.” Pavarotti đã hát suốt cuộc đời và hàng triệu người sẽ còn nghe ông hát tiếp. Có chăng, đây chỉ là lần tạm ngưng thứ hai...
TỪ GIẤC MƠ BÓNG ĐÁ ĐẾN THIÊN TÀI OPERA
Cũng như ảnh hưởng của Rudolf Nureyev và Mikhail Baryshnikov đối với balê cổ điển trong thập niên 1970, 1980, sự thân thiện, phong cách cùng kỹ năng trình diễn opera tuyệt vời của Pavarotti đã thu hút hàng triệu thính giả trong thập niên cuối thế kỷ XX, mang sức sống đến cho môn nghệ thuật quý tộc này.
Pavarotti xuất thân trong một gia đình khiêm tốn, cha là thợ bánh và là ca sĩ opera nghiệp dư chuyên hát cho dàn đồng ca nhà thờ, mẹ là công nhân nhà máy thuốc lá. Trong cuộc phỏng vấn năm 1991 với CNN, Pavarotti nói ông từng mơ trở thành ca sĩ năm bốn tuổi khi lần đầu nghe cha hát thánh ca trong nhà thờ bằng một giọng tenor tuyệt đẹp. Lúc đó ông nghĩ mình sẽ thử làm một cái gì đó. Nhưng ở Ý, có cậu bé nào lớn lên mà không một lần khao khát trở thành cầu thủ?! Thời niên thiếu, Pavarotti chơi cho đội bóng thành phố, tham dự dàn đồng ca nhà thờ và theo cha đi nhiều nơi ở châu Âu tham dự các cuộc thi hát thánh ca. Mặc dù kinh nghiệm ca hát cho Pavarotti những chuyến đi và kỷ niệm tuyệt vời, cha mẹ ông luôn hướng ông vào con đường nghề nghiệp nghiêm túc. Qua thời thơ ấu với mơ ước làm cầu thủ, sau khi tốt nghiệp trung học, Pavarotti từng muốn trở thành cầu thủ chuyên nghiệp nhưng mẹ ông lại muốn con trai làm giáo viên. Nghe lời mẹ, ông làm giáo viên dạy tiểu học hai năm. Nhưng chẳng bao lâu, sở thích ca hát lại chiến thắng. Biết không thể nào can được con trai, cha ông miễn cưỡng đưa ra thỏa thuận với Pavarotti rằng cha mẹ sẽ bao ăn ở cho cậu con trai đến năm 30 tuổi, nếu đến lúc đó mà Pavarotti chưa thành danh thì cậu phải ra khỏi nhà và tự kiếm sống.
Năm 1954, 19 tuổi, Pavarotti bắt đầu học opera chuyên nghiệp từ giảng viên, nghệ sĩ tenor có tiếng là Arrigo Pola. Chỉ khi học với Arrigo Pola, Pavarotti mới phát hiện mình sở hữu giọng hát có cao độ tuyệt vời. Cũng vào khoảng thời gian đó, ông gặp và cưới Adua Veroni, người sau này chung sống với ông 37 năm trước khi cuộc hôn nhân kết thúc. Học với Pola không bao lâu, Pola chuyển sang sống ở Nhật, Pavarotti trở thành học trò của Ettore Campogalliani, thầy của giọng soprano nổi tiếng Mirella Freni. Sáu năm tầm sư học đạo, những gì Pavarotti đạt được không gì hơn là những buổi diễn tập ở vài nhà hát nhỏ và thậm chí không được trả thù lao. Đó là những năm tháng khổ cực khi vừa học, không có cơ hội diễn, Pavarotti phải kiếm sống bằng nghề thầy giáo tiểu học, rồi chuyển sang kinh doanh bảo hiểm. Vai diễn opera đầu tiên trước công chúng là vai Rodolfo trong La Bohème vào tháng Tư năm 1961 tại một thành phố nhỏ ở Ý. Năm 1961, Pavarotti thắng giải thưởng uy tín Concorso Internazionale và vai diễn opera đầu tiên trước công chúng là vai Rodolfo trong La Bohème tại nhà hát Reggio Emilia. Danh tiếng của ông lan khắp nước Ý và xuyên suốt châu Âu khi ông trình diễn khắp nơi vở La Traviata của Giuseppe Verdi ở Belgrade.
DẤU ẤN NGỌT NGÀO
Không chỉ dừng lại ở Ý và châu Âu, khi Joan Sutherland, nghệ sĩ soprano nổi tiếng người Úc, mang ông lên sân khấu với bà trong vở Lucia di Lammermoor trên sân khấu Greater Miami Opera năm 1965, Pavarotti bắt đầu sự nghiệp ở Mỹ quốc của mình. Ba năm sau, ông diễn tại nhà hát Metropolitan Opera House tại New York và ông đã diễn ở đó tổng cộng 379 lần trong suốt sự nghiệp của mình, kể cả vở opera cuối cùng Tosca của Puccini năm 2004 trong vai người họa sĩ Mario Cavaradossi.
Ngoài hàng triệu bản ghi âm được bán và hàng triệu đô la quyên góp qua những buổi diễn từ thiện, Pavarotti được xem là nghệ sĩ mang lại một khái niệm mới, kết hợp pop và opera, được gọi là popera, “bình dân hóa” opera và mang nghệ thuật sân khấu cổ điển ấy đến với khán thính giả khắp nơi trên thế giới.
Album The Essential Pavarotti là album nhạc cổ điển đầu tiên xếp hạng nhất trên bản xếp hạng pop Anh và giữ vị trí trong năm tuần. Còn album The Three Tenors in Concert của ông với hai giọng tenor nổi tiếng Placido Domingo và Jose Carreras là một trong những album bán chạy nhất của mọi thời đại.
Về mặt nghệ thuật, Pavarotti là một người hát đẹp, chất giọng phù hợp với phong cách bel canto mượt mà truyền thống của nghệ thuật opera Ý thế kỷ 17. Cũng chính nhờ sự hồi hồi sinh của bel canto trong giai đoạn 1950-1960 mà sự xuất hiện của giọng ca Pavarotti được xem là rơi vào đúng thời vàng son của bel canto. Ngoài cao độ, bel canto còn tập trung vào độ ấm của giọng và những đoạn vút nhẹ nhàng. Hát opera là một nghề đòi hỏi sự khổ luyện. Ngay cả những ca sĩ tài năng nhất như Pavarotti vẫn phải rướn và đứng trên các ngón chân khi vào những đoạn khó. Một chiếc khăn tay trắng dài luôn ở một bên tay lúc hát, hai đường chân mày nhướn cao như lộ vẻ hết sức ngạc nhiên đã trở thành biểu tượng thành công của Pavarotti.
Với popera, Pavarotti đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử opera truyền thống. Từ những khởi đầu nhỏ, Pavarotti đã vươn đến những đỉnh cao, trình diễn trước 500.000 thính giả tại Central Park, New York – một chương trình hòa nhạc được truyền hình đến hàng triệu người và trước 300.000 ngàn người chen nhau dưới bóng râm của tháp Eiffel tại Paris. Trong khi các ngôi sao opera trước đó tự đóng khung mình trong thế giới nghệ thuật khó gần, khán giả truyền hình khắp thế giới nghe Pavarotti song ca với những ngôi sao nhạc pop, rock như Sting, Bono, Celine Dion, Maria Carey, Vanessa Williams… trong chương trình từ thiện “Pavarotti và những người bạn” được tổ chức hàng năm.
Bản nhạc solo “Nessun Dorma” từ vở “Turandot” của Puccini được chọn làm nhạc nền cho World Cup 1990 tại Ý và đã trở thành bản nhạc để đời của Pavarotti. Bản này được trình diễn lần cuối tại buổi khai mạc Thế vận hội mùa Đông năm 2006 tại Turin.
Trong sự nghiệp của mình, Pavarotti được trao rất nhiều giải thưởng, trong đó có năm giải Grammy và danh hiệu Sứ giả hòa bình của Liên hiệp quốc dưới thời Tổng thư ký Kofi Anna. Pavarotti là người sáng lập cuộc thi The Pavarotti International Voice Competition từ năm 1982 và mở trường dạy thanh nhạc cho các ca sĩ nhỏ tuổi ở quê nhà Modena.
SỰ RA ĐI CỦA NGƯỜI LẠC QUAN
Pavarotti được biết đến một cách thân thiện là Big Luciano hay Fat Lucy (Lucy béo) và kế hoạch giảm cân luôn là mặt trận mà ông thua hoài. Vấn đề của một cơ thể 175kg khiến ông phải thực hiện phẫu thuật cho hông, đầu gối và dây thanh quản bị căng. Còn một số cái căng khác là từ những rắc rối về tài chính. Năm 2000, ông phải dàn xếp một cuộc kiện tụng kéo dài bốn năm và trả 12 triệu đô tiền hoàn thuế.
Trong mười năm trở lại, Pavarotti bị chỉ trích vì sự thiếu năng động trên sân khấu. Ông cũng bị than phiền về bệnh ngôi sao vì thường hay bỏ diễn vào phút cuối hay quên một số nốt trong hòa âm. Giới phê bình đôi lúc đánh tiếng về sự xuống sức của Pavarotti không cho phép ông diễn nhiều tác phẩm cùng lúc. Năm 1992, ông thừa nhận đã phải hát nhép trong một buổi hòa nhạc được BBC phát sóng trực tiếp vì cho rằng ông đã không được chuẩn bị trước và tình nguyện đề nghị trang trải toàn bộ chi phí buổi phát sóng cho BBC. Mặc dù vậy, người hâm mộ vẫn không thôi ca ngợi Pavarotti.
Năm 2003, khi ngôi sao trên sân khấu bắt đầu mờ dần ở độ tuổi sáu mươi, Pavarotti tìm được hạnh phúc mới trong đời sống hôn nhân. Sau khi ly hôn với người vợ trước từng chung sống 37 năm, Pavarotti cưới Nicoletta Mantovani, người vốn là trợ lý lâu năm và trẻ hơn ông 34 tuổi, nhỏ tuổi hơn cả ba cô con gái với vợ đầu của ông.
Nicoletta mang thai cặp song sinh nhưng bé trai sinh ra trong tình trạng đã chết vì thiếu dưỡng khí. Bé gái Alice năm nay được bốn tuổi. Đau buồn trước cái chết của con trai, Pavarotti dồn hết tình thương cho con gái Alice và thu album solo đầu tiên trong 15 năm để kỷ niệm - Ti Adoro (I Adore You) là một album mang phong cách pop nhẹ nhàng hơn là opera truyền thống.
Người thân và bạn bè của Pavarotti đều biết rằng ông không bao giờ hát ở nhà, thậm chí hát trong bồn tắm cũng không. Ông nói ông không thể chịu nổi khi nghe nhạc của chính mình vì là dân chuyên nghiệp, ông sẽ chỉ nghe ra toàn những nốt sai. Pavarotti là một người có tiếng vui nhộn. Ông hay nói: “Ác mộng của tôi là được mời ăn tối và có ai đó mở đĩa nhạc của Luciano Pavarotti. Nhạc của gã đó làm tôi mất hứng!”
Pavarotti có ý định thực hiện tour diễn cuối cùng vòng quanh thế giới để chào tạm biệt trước khi chính thức rời sân khấu chuyên nghiệp nhưng cvn đề sức khỏe đã khiến ông không thể hoàn thành dự án cuối. Tháng 7/2006, Pavarotti trải qua phẫu thuật tại New York vì ung thư tụy và nghỉ dưỡng tại villa ở quê nhà Modena. Ngay khi bệnh, Pavarotti vẫn luôn lạc quan và tràn đầy hy vọng rằng ông sẽ trở lại tour diễn sớm và lời tạm biệt bây giờ chỉ là tạm thời.
Đầu tuần nay, ông vinh sự được chính phủ Ý trao tặng danh hiệu Premio per l'Esccellenza nella Cultura Italiana (Vì sự đóng góp xuất sắc cho văn hóa Ý). Những buổi hòa nhạc từ thiện của Pavarotti đã trở thành truyền thống trong thế giới âm nhạc với số tiền quyên lịch sử: 8.5 triệu đô cho người tị nạn ở Bosnia, 3.3 triệu cho người tị nạn ở Afghanistan và một triệu đô cho người tị nạn Kosovo. Ông cũng là bạn thân của công nương Diana và ủng hộ viên tích cực của Diana trong các chiến dịch vận động chống nạn khai thác mỏ sử dụng lao động trẻ em. Ông được mời hát tại lễ tang Diana nhưng từ chối vì “không thể hát với nỗi buồn trong họng được”.
Pavarotti sinh thời là một người vui vẻ. Về sau, khi phải sống chung với bệnh ung thư, ông vẫn lạc quan về sự trở lại của mình. Khi căn bệnh ung thư không cho phép ông tiếp tục ca hát và hoàn thành tour diễn trọn đời của mình, dường như đó chỉ là lần ngắt quãng thứ hai trong suốt sự nghiệp ca hát của ông. “Tôi nghĩ tôi chỉ dừng một năm trong giai đoạn từ một đứa trẻ trở thành một người đàn ông và bị đổi giọng. Từ alto, tôi trở thành tenor và đó là lần duy nhất tôi nhớ mình phải ngưng hát. Còn không thì, tôi sẽ luôn hát suốt đời.” Pavarotti đã hát suốt cuộc đời và hàng triệu người sẽ còn nghe ông hát tiếp. Có chăng, đây chỉ là lần tạm ngưng thứ hai...
Quế Anh (theo BBC, New York Times)
JIMMY PHẠM – CHÀNG HƯỚNG DẪN TRÊN CHUYẾN LỮ HÀNH CUỘC ĐỜI
Ở tuổi 34, đi qua 35 nước, trông Jimmy Phạm (tên đầy đủ Phạm Việt Tuấn) già dặn và từng trải hơn nhiều so với tuổi. Là người sáng lập KOTO- tổ chức phi lợi nhuận dạy nghề cho trẻ đường phố, và điều hành Le Pub- hệ thống quán bar tại Hà Nội & Sài Gòn, dường như Jimmy Phạm được sinh ra để làm người hướng dẫn- không chỉ cho riêng anh, mà còn cho nhiều thân phận anh gặp trên chuyến lữ hành dài của cuộc đời.
KOTO
Xuất thân là hướng dẫn viên du lịch cho Travel Indochina, British Airways, có lẽ chàng thanh niên người Úc mang trong mình hai dòng máu Việt-Hàn cũng không ngờ có ngày mình dừng chân, mà lại dừng lâu đến thế tại Việt Nam quê mẹ, nơi khi ra đi anh chỉ là một cậu bé vài tuổi. Cuộc đối thoại đánh dấu bước ngoặt trong đời xảy ra trên đường phố Hà Nội vào năm 1996 giữa Jimmy và một nhóm trẻ đường phố. Khi anh hỏi chúng muốn gì từ cuộc sống, chúng trả lời đơn giản, rằng “tụi em cần kỹ năng để kiếm được việc làm ổn định”, thế là ý niệm về một KOTO nẩy mầm trong Jimmy.
Để rồi năm 1998, Jimmy Phạm và một nhóm tình nguyện viên, chuyên gia người Úc hoạt động trong nhiều lĩnh vực cùng sáng lập một tổ chức từ thiện giúp trẻ đường phố khó khăn tại Việt Nam. KOTO ra đời, viết tắt của cụm từ Know One Teach One (Biết một dạy một) – là phương châm và nguyện vọng của tổ chức.
KOTO là mô hình trường dạy nghề nhằm cung cấp kỹ năng cần thiết cho các học viên được tuyển chọn từ trẻ đường phố, tạo điều kiện cho các em học được nghề và trang bị kiến thức cũng như kỹ năng sống để tự xây dựng cho mình một tương lai tốt đẹp hơn. Tính từ năm 2000 đến nay, KOTO đã có bảy khóa, trong đó khóa Bảy sắp tốt nghiệp, với thời gian học mỗi khóa kéo dài 18 tháng. Cứ mỗi sáu tháng KOTO lại lên kế hoạch tuyển và đào tạo hai mươi lăm em trong độ tuổi từ 16 đến 22 có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chuyên sống và làm việc trên đường phố. Qui trình tuyển chọn của KOTO được thực hiện bài bản từ khâu làm câu hỏi trắc nghiệm trình độ, khả năng tiếp thu, đến phỏng vấn trực tiếp để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, năng khiếu của từng em. Qua vòng sơ tuyển, tình nguyện viên KOTO còn đi về từng địa phương để kiểm tra những thông tin gia đình và hoàn cảnh mà các em đã cung cấp.
Dưới sự dẫn dắt của người sáng lập, KOTO tập trung phát triển đúng hướng được định vị ngay từ đầu của mình là trường dạy kỹ năng làm bếp nhà hàng khách sạn, cung cấp kỹ năng và kiến thức cơ bản về bồi, bàn & bếp Á, bếp Âu. Không chỉ học chuyên môn, học viên ở KOTO còn phải học tiếng Anh và thực hành kỹ năng làm bếp trực tiếp tại nhà hàng KOTO đối diện Văn Miếu, vốn được mở ra với hai mục đích, vừa là nơi để học viên vừa học vừa hành, vừa là nơi bổ sung nguồn thu nhập cho học viên và trang trải thêm chi phí cho KOTO. Theo Jimmy, điều đáng mừng là tuy đời sống mưu sinh khó khăn nhưng tỉ lệ biết đọc biết viết của trẻ đường phố tại Việt Nam là khá cao. Đây là điều đáng mừng vì các em có được một cái nền tối thiểu để tiếp tục học và phát triển các kỹ năng khác. Sau khi tốt nghiệp, học viên tại KOTO được cấp chứng chỉ được quốc tế công nhận, cấp bởi trường dạy nghề Box Hill TAFE, Úc. Đa số các em tốt nghiệp kiếm được việc làm ổn định tại nhà hàng khách sạn 4-5 sao tại Hà Nội, hoặc ở lại trở thành giảng viên cho các khóa sau tại KOTO.
Tâm niệm dạy nghề thôi chưa đủ, KOTO và những người điều hành tin tưởng rằng để thành công trong cuộc sống, những học viên của KOTO cần trang bị những kỹ năng xã hội khác để tự tin và hòa nhập với cuộc sống. Vì thế, chương trình sinh hoạt của KOTO còn bao gồm cả việc hướng dẫn kiến thức về sức khỏe sinh sản, kiến thức cơ bản về sơ cứu y tế, rèn luyện sức khỏe, thể thao, dã ngoại, từ thiện, sáng tạo và trao đổi văn hóa… Hoàn thành chương trình học ở KOTO, các bạn trẻ đường phố không chỉ phát triển kỹ năng nghề nghiệp, mà còn được định hướng trở thành những nhân viên đáng tin cậy, phát triển cân bằng cả thể chất và tinh thần, hướng đến những giá trị truyền thống được đề cao trong xã hội Việt Nam như tính trung thực, tận tụy, trách nhiệm, thương người và cống hiến cho cộng đồng.
Và LE PUB
Chênh chếch đối diện chùa An Lạc, khuất trong một con hẻm trên khu phố Tây ở Phạm Ngũ Lão, Tp. Hồ Chí Minh, Le Pub – cái tên khiêm tốn, trên tấm bảng hiệu khiêm tốn, thể hiện một phong cách đơn giản đến mức tối giản. Gần mười năm sau khi thành lập, khi KOTO đã bắt đầu đi vào ổn định, Jimmy trao lại dây cương điều hành KOTO và tiếp tục cuộc lữ hành trong sự nghiệp xây dựng một mô hình du lịch mới. Le Pub Hà Nội đối diện chợ Hàng Bè, một trong bộ tam Hàng Bè- Hàng Bạc- Hàng Bồ vốn được xem là những phố Tây ở Hà Nội. Song có vào Sài Gòn mới thấm nhiều điểm khác biệt trong khẩu vị của khách du lịch đặc trưng đến mỗi vùng. Khách Hà Nội thích beer, ngồi lâu, chất cố đô lan cả vào quán bar, khách Sài Gòn thích cocktail, di chuyển nhanh, tràn ngập không khí hội nhập quốc tế…Và dường như ở Sài Gòn, người ta hiểu được khách du lịch muốn gì.
Le Pub không giống bất kỳ quán bar nào khác. Không đơn điệu, dễ dãi như nhiều bar-pub trên Đề Thám, không rộn rịp xô bồ như Seven Teen Saloon, Le Pub có màu riêng, đó là cảm giác ấm áp của màu đỏ và ấn tượng về sự trường tồn của gỗ. Jimmy cho rằng, dù đi du lịch ở đâu, người ta vẫn luôn dành một khoảng thời gian để tìm về cảm giác như được ở quê nhà. Đó là lý do vì sao ngoài những đường nét bản sắc Việt cần thiết ở một thành phố du lịch, những quán nhỏ dành cho khách Tây vẫn được thừa nhận như một phần văn hóa không thể thiếu, mà nếu khai thác đúng cách, có thể tạo ra những mảng màu mới cho bức tranh văn hóa du lịch, ẩm thực. Khác với những quán rượu Tây thường chọn Happy Hour tránh trùng giờ cao điểm để khuyến mãi, Happy Hour ở Le Pub được mở cho suốt cả tuần. Ví dụ như chỉ với mười lăm ngàn, thứ Hai bạn sẽ được phục vụ một ly Tequilla, thứ Ba, là Voka, thứ Tư là Gin & Tonic, thứ Năm, Sáu, Bảy, bia tươi Tiger hoặc cocktail giá chỉ hai mươi ngàn cho tất cả các loại… Đến chơi tại Le Pub, khách có thể thưởng thức những tác phẩm nghệ thuật của những nghệ sĩ nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam. Gần đây nhất, “phòng trưng bày” Le Pub giới thiệu bộ sưu tập ảnh chụp và tranh vẽ cảm nhận về đất nước và con người Việt Nam mang tên “Double Vision” (Tầm nhìn đôi) của hai nghệ sĩ Fred Wissink và David Ball. Với kinh nghiệm mười năm trong ngành du lịch, Jimmy đang ấp ủ mô hình PIT (Possitve Impact Tourism) và Responsible Travel, đặt ra tinh thần trách nhiệm đối với môi trường cho khách du lịch và mang lại những cảm hứng, kinh nghiệm mới cho các tour du lịch còn rất nhiều tiềm năng tại Việt Nam.
Tháng Tư này, Jimmy – Phạm Việt Tuấn sẽ tổ chức sinh nhật cho mẹ tại KOTO Hà Nội. Những người anh em của anh ở khắp nơi cũng sẽ tề tựu về. Đẹp biết bao tấm lòng những người con xa xứ luôn hướng về quê cha đất mẹ!
Quế Anh
PHIM NHẬT VÀ SỰ TRỞ VỀ CỦA ĐIỆN ẢNH CHÂU Á
Cuối năm 2006, tại bảo tàng quốc gia Singapore diễn ra liên hoan phim Nhật kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong 17 phim Nhật được chọn trong liên hoan phim lần này có 3 phim hoạt hình, 5 phim được khuyến cáo có chủ đề bạo lực và tính dục, các phim còn lại thuộc thể loại tâm lý xã hội, khai thác tâm lý thanh thiếu niên và tình cảm học đường. Được chú ý nhiều nhất tại các liên hoan phim quốc tế là Yoshino’s Babber Shop của đạo diễn Ogigami Naoko với giải thưởng Liên hoan phim Berlin 2004; We shall overcome someday (Pacchigi!) của đạo diễn Izutsu Kazuyuki đạt giải phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất liên hoan phim Blue Ribbon, Yokohama, Kinema Junpo; Fireworks của đạo diễn Kitano Takeshi đạt giải Sư Tử vàng liên hoan phim Venice và giải thưởng từ viện hàn lâm Nhật Bản. Loạt phim Gakko (Trường học tiếng Nhật) của Yamada Yoji tiếp nối loạt phim khai thác mối quan hệ phức tạp giữa người trong một xã hội quay cuồng phát triển. Gakko nhấn mạnh mối liên hệ tình thầy trò, lòng yêu nghề và hiếu học của người thầy và trò trong truyền thống Nhật Bản, được giới thanh thiếu niên Nhật đón nhận nồng nhiệt. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho giới trẻ Nhật Bản khi mà từ giữa thập niên 90, thanh thiếu niên Nhật đã nổi tiếng tiên phong hưởng ứng những trào lưu ngoại lai.
Số liệu năm 2006 do Hiệp hội các nhà sản xuất phim Nhật Bản công bố cho thấy phim Nhật chiếm 53 phần trăm doanh thu của rạp chiếu phim. Tại Nhật Bản, giới phê bình nghệ thuật tỏ ý vui mừng với dấu hiệu hồi sinh của điện ảnh Nhật vốn bị lu mờ trong gần một thập niên qua bởi ánh hào quang của Hollywood, “người hàng xóm xinh đẹp” Hàn Quốc và những bộ phim thương mại lẫn nghệ thuật giá trị của các đạo diễn Đài Loan như Ang Lee (đạo diễn Ngọa Hổ Tàng Long, Brokeback Mountain), Tsai Ming-liang (đạo diễn Vive L’Amour, Sư tử vàng liên hoan phim Venice), Hou Hsiao-Hsien (đạo diễn Café Lumière, Ballon Rouge) ...
Những kiệt tác của điện ảnh Nhật trong thế kỷ hai mươi được thế giới công nhận đều là những bộ phim được làm từ những năm 50 như Rashomon, Bảy võ sĩ đạo (Seven Samurai), Câu chuyện Tokyo (Tokyo Story) với tên tuổi hai cây đại thụ - đạo diễn Akira Kurosawa và Yasujiro Ozu. Cho đến giữa thập niên 80, sở thích của người xem phim dần hướng sang các sản phẩm thời thượng của Hollywood, phù hợp với nhịp sống của một xã hội văn minh. Mặc dù ba bộ phim đạt doanh số cao nhất khi chiếu tại rạp ở Nhật vẫn thuộc về Hollywood, năm 2006 đánh dấu sự quan tâm trở lại của khán giả Nhật với điện ảnh nước nhà. Góp phần tạo ra một làn sóng nội địa trong nước Nhật là làn sóng mới của điện ảnh châu Á, mà hai đại diện hoành tráng và chất lượng nhất là điện ảnh Hàn Quốc và Đài Loan. Bên cạnh đó, nhiều bộ phim Nhật Bản được thực hiện tại Hollywood và lớp đạo diễn trẻ ở các nước châu Á phát triển đều được đào tạo qua “cái lò” điện ảnh Mỹ.
Mặc dù làn sóng mới của điện ảnh châu Á thể hiện mục đích “trao đổi” văn hoá khá lộ liễu –chủ đề phương Đông huyền bí và minh triết phương Đông được khai thác khá thành công trước khi trở nên quá đà vì tính kịch - tiêu biểu là Hồi ức của một Geisha, làn sóng nội địa trong mỗi nước lại có một sinh mệnh riêng, nghe ngóng, gõ cửa và thức tỉnh những nỗi niềm, những thân phận trong bối cảnh lịch sử xã hội riêng của từng dân tộc.
Ở Nhật Bản, nỗi đau chiến tranh dần khép lại và phai dần trong tâm trí lớp người thế hệ trước. Mất gần hai mươi năm loay hoay tìm đề tài, điện ảnh Nhật khởi sắc ngay trong lòng nó với những đề tài gần gũi với cuộc sống thế hệ trẻ lớn lên trong xã hội tiêu dùng. Cảnh tượng người Nhật xếp hàng xem phim Nhật và thành công của những bộ phim gần đây như We shall overcome someday, The Professor and his beloved equation, Jazz Daimyo, Gakko, Gedo Senki… cho thấy thanh niên Nhật không quay lưng với những giá trị nhân bản truyền thống.
Nằm ngoài dòng chảy chính của điện ảnh Hong Kong và sự kiểm duyệt của điện ảnh Trung Quốc, từ dạo những năm 80 thế kỷ trước, công nghiệp phim Đài Loan bắt đầu tìm lối đi riêng, thoát khỏi mô-típ phim kungfu hoặc lãng mạn kiểu Quỳnh Dao một thời. Phim Đài Loan chú trọng những đề tài phản ánh cuộc sống đương đại tại cả thành thị và nông thôn Đài Loan, những mâu thuẫn và khắc khoải níu kéo giữa văn hóa Trung Hoa đại lục và văn hóa Mỹ đang ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống người dân đảo quốc. Những làn sóng mới trong điện ảnh Đài Loan phản ánh sự thay đổi độc đáo và nhanh chóng trong lịch sử phát triển cận đại, trong đó sự tương đồng về ngôn ngữ - tiếng Trung Quốc và sự dị biệt trong cách tiếp nhận văn hóa khiến Đài Loan trở thành một mảnh đất đề tài màu mỡ cho các nhà đạo diễn khai thác. Nổi tiếng nhất trong làn sóng mới của điện ảnh Đài là đạo diễn Ang Lee với The Wedding Banquet (1993), Eat Drink Man Woman (1994) kể về những mâu thuẫn thế hệ và văn hóa trong những gia đình hiện đại; Tsai Ming-liang với Vive L’Amour đạt giải Sư Tử vàng liên hoan phim Venice kể về nỗi tuyệt vọng, cô lập, tình yêu của những thanh niên Đài trên những khu căn hộ cao tầng…. Ang Lee cũng chính là người có công trong việc đưa điện ảnh châu Á đến gần với khán giả phương Tây qua bộ phim Ngọa Hổ Tàng Long (2000).
So với Nhật, Đài Loan, công nghiệp làm phim Hàn Quốc có thế mạnh vượt trội là nguồn tài chính dồi dào từ các công ty tư bản đầu tư vào các hãng phim. Có nhà sản xuất từng nửa thật nửa đùa rằng, yếu tố hạn chế số lượng phim được làm ra ở Hàn Quốc không phải là tiền mà là số máy quay phim hiện có trong nước. Điện ảnh Hàn Quốc sản xuất nhiều và nhanh, nghiêng về thực hành nhiều hơn là đầu tư nghệ thuật. Nguyên nhân một phần là do đội ngũ đạo diễn, diễn viên và ê-kíp làm phim ở Hàn Quốc đông đảo, được đào tạo chất lượng tốt nên sản phẩm ra đời dễ dàng. Với một nền công nghiệp làm phim sẵn phát triển và nghệ thuật quay phim bậc thầy, thành công của phim Hàn chỉ là vấn đề ý tưởng. Mà ở khâu này, điện ảnh Hàn Quốc nói là thiếu thì bất nhã, mà hài lòng thì có phần dễ dãi. Trong loạt mười phim ăn khách nhất tại Hàn Quốc năm vừa qua, ấn tượng phim Hàn để lại là những xúc cảm tuy nông mà đẹp. Ba phim dẫn đầu danh sách thuộc về phim nội địa là The Host (còn biết dưới tên Quái vật sông Hàn, đạo diễn Bong Joon-ho), Tazza: The High Rollers và My Teacher, My Boss. Với sự ưu ái đặc biệt của người dân dành cho phim trong nước, điện ảnh Hàn Quốc hoàn toàn đứng vững trên phương diện thương mại.
Cùng với sự hồi sinh của phim Nhật, điện ảnh châu Á đang trở về gần hơn với tính dân tộc của mình. Hy vọng đó chính là thứ mà bạn bè quốc tế đang chờ đợi và ngưỡng mộ khi nhìn về châu Á, chứ không phải chỉ có kung-fu, điếm Nhật với ma Hàn.
Thượng Huyền
JONAH LEVEY- NGƯỜI ĐI TÌM ĐỊNH NGHĨA CHO NAVIGOS
Giống như Google, một từ không có nghĩa trong tiếng Anh, đã tự định nghĩa mình một cách ngoạn mục là công cụ tìm kiếm số một thế giới bằng sự thừa nhận của công dân mạng, Navigos ra đời, mang trong mình một nửa âm hưởng của Navigate (nghĩa là định hướng), nửa còn lại gánh sứ mạng biến Navigos thành một biểu tượng - thứ mà sức mạnh vốn không thể nào biểu hiện bằng lời. Đối với Jonah Levey, người sáng lập Navigos và VietnamWorks.com, chặng đường tìm kiếm và gắn kết ý nghĩa cho biểu tượng là minh chứng cho quan điểm “Cách tốt nhất để tìm thấy là không tìm gì cả”.
Năm 2001, trong kỳ nghỉ đến Việt Nam thăm người bạn thân từ thời trung học đang làm việc trong lĩnh vực đầu tư tại, Jonah Levey được gặp gỡ và tiếp xúc với một số chủ tịch, giám đốc công ty đang làm ăn ở Việt Nam và ngạc nhiên khi thấy họ rất quan tâm đến vấn đề nhân sự. Hơn cả việc nhận ra cơ hội phát triển các kênh thông tin cho thị trường lao động tại Việt Nam, là niềm tin đây chính là nơi anh cần phải đến để sống và lấp đầy một cái gì còn thiếu như lẽ sống của mình. Tuổi ba mươi đánh dấu một quyết định đáng ghi nhớ khi Jonah quyết định rời bỏ vị trí vị giám đốc điều hành công ty tư vấn nhân sự tại New York để đến Việt Nam xây dựng một đế chế theo phong cách và triết lý sống của riêng mình.
Jonah cho rằng trong cuộc sống mỗi người, gia đình- tình yêu- công việc là ba nguồn hạnh phúc không thể thiếu, và nếu có cơ hội tác động tích cực đến nhu cầu được thành công trong chuỗi nguồn hạnh phúc đó thì tại sao lại không làm. Dịch vụ đầu tiên và thành công nhất của công ty cho đến thời điểm này là hoạt động của VietnamWorks.com – chợ thông tin tuyển dụng điện tử, nơi cơ hội việc làm và bí quyết hướng nghiệp mở ra cho tất cả người tìm việc.
Con số hơn bốn ngàn công ty khách hàng, bảy trăm ngàn ứng viên đăng ký hồ sơ trên VietnamWorks.com, và hàng chục ngàn chuyên viên, nhân viên trong hầu hết các lĩnh vực trên cả nước đã, đang và sẽ sử dụng Vietnamworks như một địa chỉ tin cậy cung cấp thông tin tuyển dụng, tư vấn nhân sự thể hiện sự tin tưởng vào chất lượng thông tin và hỗ trợ từ “chợ việc làm” của Navigos, vốn chỉ mới thành lập từ năm 2002.
Khi nói về kinh nghiệm kinh doanh tại Việt Nam, Jonah ví von phong cách của Navigos là sự dung hòa giữa sở thích của một người chỉ yên tâm khi ngồi trên SH với một người chỉ thoải mái với chiếc Honda Cub. Đối với khách hàng, có thể họ không quan tâm văn phòng Navigos ở đâu, tầng mấy, cao ốc nào….bởi đối với họ, chất lượng dịch vụ của Navigos là yếu tố quyết định. Nhưng đối với người tìm việc, những người quyết định đặt niềm tin cho Navigos để hỗ trợ họ trên con đường lựa chọn sự nghiệp một cách chuyên nghiệp thì mối quan tâm ở đây hoàn toàn khác hẳn. Cảm thức về tính chuyên nghiệp và thành công của công ty tư vấn nhân sự lại là yếu tố quan trọng. Jonah quyết định đầu tư vào những yếu tố mang lại niềm tin cho nhóm đối tượng “khách hàng” vốn không hề trả tiền cho các dịch vụ thụ hưởng từ Navigos.
Sự tỉ mỉ, tinh tế đến mức cầu kỳ của Jonah có thể làm những người mới quen ngộ nhận về chất phóng khoáng và quyết đoán của người đàn ông có khuôn mặt khả ái như nhân vật nam trong phim Tháng Mười Một Ngọt Ngào (*). Sự cầu toàn của một người duy mỹ có thể khiến Jonah bỏ thời gian lặn lội tìm mua cho được những tấm lót ly, hoặc đích thân chọn những bức tranh phù hợp phong cách công ty: tinh tế, chín chắn, khác lạ và mang hơi thở đương đại. Thế nhưng một Jonah cầu toàn lại không bao giờ đặt sự hoàn hảo làm tiêu chí phát triển của Navigos. Hơi thở đương đại không ngừng cố gắng hoàn thiện mỗi ngày và không bao giờ được đóng trong cái khung của sự hoàn hảo.
Là giám đốc điều hành, song Jonah vẫn mang tâm huyết của một người làm chuyên môn- một chuyên gia tư vấn nhân sự cấp cao. Theo kinh nghiệm của anh, ở Mỹ, các công ty dễ dàng hoàn toàn được vận hành và quản lý bằng việc đặt ra những mục tiêu. Nhưng kinh nghiệm ở Việt Nam cho thấy, chính sự nối kết giữa nhân viên và lãnh đạo mới là cái kèo, cái cột mà mọi sự vận hành trong một công ty phải tựa vào. Theo anh, những giám đốc, nhà tư vấn nhân sự tại các công ty Việt Nam rất thành thạo về chuyên môn ở phương diện quản lý - điều hành, song một tầm nhìn chiến lược mới là cốt lõi của công tác nhân sự. Nhân sự là một bộ phận có điều kiện và sức mạnh tạo ra ảnh hưởng văn hóa trong một công ty. Lương bổng, chức danh thực tế chỉ là giải pháp cầm chân người lao động. Sự gắn bó thực sự giữa nhân viên và công ty là sợi dây nối kết về mặt cảm xúc. Chỉ khi nào người nhân viên cảm thấy công việc là niềm vui, thấy sự cống hiến của họ có một tác động nào đó đến sự phát triển của công ty, thấy công việc là cơ hội để học hỏi và phát triển bản thân – thì khi ấy, sợi dây nối kết với công ty mới được bền chặt.
Ngay từ đầu thành lập, vị giám đốc trẻ đã tâm niệm VietnamWorks là dành cho người Việt - làm sao để người lao động có nguồn thông tin tốt nhất, nguồn cơ hội tốt nhất để thành công. Navigos và VietnamWorks đặc biệt quan tâm đến việc chuẩn bị cho sinh viên sắp tốt nghiệp hoặc mới ra trường những kinh nghiệm thực tế nhất định trước khi bước vào môi trường làm việc chuyên nghiệp bằng cách hỗ trợ công ty, tổ chức có nhu cầu tuyển sinh viên được đăng thông tin miễn phí.
Kết quả của một cuộc phỏng vấn thành công không phải là chỉ số thông minh của ứng viên, mà là sự khéo léo. Trong một cuộc tìm kiếm, điều thật sự có ý nghĩa là cách một người đi tìm. Triết lý bất khả thuyết ấy sẽ là bất khả tri nếu con người không dấn thân theo nguồn của cái tâm vô sở cầu. Trên cuộc hành trình tìm định nghĩa cho Navigos, Jonah đã tìm được hai từ khóa ý nghĩa trong cuộc đời mình.
Từ khóa thứ nhất là VietnamWorks - nơi hàng trăm ngàn lao động trí thức Việt Nam đang gửi niềm tin và khát vọng thành đạt.
Từ khóa thứ hai chính là Nguyễn Minh Phương, vị hôn thê yêu dấu của anh.
Quế Anh
(*) Sweet November
Subscribe to:
Posts (Atom)